Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân là tội danh nhằm bảo vệ quyền chính trị cơ bản của công dân. Tội danh này hiện nay đang được quy định tại Điều 160 Bộ luật Hình sự 2015 nhằm khẳng định nguyên tắc dân chủ, bảo đảm mọi công dân được tự do, bình đẳng trong việc tham gia bầu cử, ứng cử và biểu quyết.
Mục lục bài viết
- 1 1 Khái quát về Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
- 1.1 1.1. Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân là gì?
- 1.2 1.2. Ý nghĩa của Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân trong pháp luật hình sự:
- 1.3 1.3. Cơ sở pháp lý của Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
- 4 4. Tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
- 5 5. Phân biệt với Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân:
- 6 6. Các biện pháp bảo vệ quyền bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
- 6.1 6.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bầu cử và trưng cầu ý dân:
- 6.2 6.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật:
- 6.3 6.3. Bảo đảm tính minh bạch, khách quan trong quá trình tổ chức bầu cử và trưng cầu ý dân:
- 6.4 6.4. Xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm:
- 6.5 6.5. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, báo chí và các tổ chức xã hội:
1 Khái quát về Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
1.1. Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân là gì?
Điều 27 Hiến pháp năm 2013 quy định: Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định.
Điều 29 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy định: Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
Theo đó, trưng cầu dân ý là hình thức dân chủ trực tiếp, trong đó Nhà nước tổ chức để toàn thể cử tri trực tiếp biểu quyết và bày tỏ ý chí của mình về những vấn đề quan trọng thuộc chủ quyền quốc gia hoặc liên quan đến lợi ích chung của đất nước. Kết quả trưng cầu dân ý có giá trị quyết định, buộc các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng và thực hiện. Đây là cơ chế thể hiện quyền lực nhân dân và được Hiến pháp năm 2013 và Luật Trưng cầu ý dân năm 2015 ghi nhận.
Ở Việt Nam, quyền bầu cử, ứng cử và quyền tham gia trưng cầu ý dân của công dân được pháp luật ghi nhận là những quyền chính trị cơ bản. Tuy nhiên trên thực tế, vẫn tồn tại một số hành vi vi phạm như cản trở công dân đi bầu cử, mua chuộc, lừa gạt hoặc cưỡng ép công dân trong quá trình thực hiện quyền chính trị của mình. Những hành vi này không chỉ xâm phạm trực tiếp quyền dân chủ của công dân mà còn ảnh hưởng đến tính công khai, minh bạch và sự công bằng của cuộc bầu cử hoặc trưng cầu ý dân. Mặc dù hiện nay tình trạng vi phạm chưa phổ biến rộng rãi nhưng các vụ việc xảy ra đều gây dư luận bức xúc, từ đó làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào cơ chế dân chủ và sự nghiêm minh của pháp luật.
Có thể nói, quyền bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân là quyền cơ bản của công dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân đối với nhà nước. Mọi hoạt động xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân đều là hành vi vi phạm pháp luật và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đáp ứng các cấu thành tội phạm tại Điều 160 Bộ luật hình sự năm 2015.
Vì thế có thể đưa ra khái niệm như sau:
“Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có nặng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi cố ý lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân.”
1.2. Ý nghĩa của Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân trong pháp luật hình sự:
- Thứ nhất, bảo đảm quyền dân chủ cơ bản của công dân: Tội danh này được quy định nhằm khẳng định rằng quyền bầu cử, ứng cử và trưng cầu ý dân là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm; mọi hành vi cản trở đều phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
- Thứ hai, bảo vệ tính công bằng, minh bạch của quá trình bầu cử và trưng cầu ý dân: Việc xử lý tội phạm giúp ngăn chặn các thủ đoạn gian lận, mua chuộc, cưỡng ép, từ đó bảo đảm các cuộc bầu cử và trưng cầu ý dân diễn ra khách quan, phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
- Thứ ba, răn đe và phòng ngừa vi phạm trong xã hội: Quy định tội danh này cảnh báo rằng mọi hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc động cơ cá nhân để cản trở quyền chính trị của công dân đều sẽ bị xử lý hình sự, từ đó góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
- Thứ tư, củng cố niềm tin của nhân dân vào pháp luật và Nhà nước: Khi quyền dân chủ của công dân được bảo vệ bằng các chế tài hình sự nghiêm khắc, nhân dân sẽ yên tâm thực hiện quyền chính trị của mình, từ đó tăng cường sự đồng thuận xã hội và củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Nhà nước.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân hiện nay đang được quy định tại Điều 160 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 02 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Dần đến hoãn ngày bầu cử, bầu cử lại hoặc hoãn việc trưng cầu ý dân.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
2.1. Khách thể:
Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân xâm phạm đến: Quyền tự do của con người, quyền tự do dân chủ của công dân.
Đối tượng tác động của Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân là: Quyền bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết. Trong đó:
- Quyền bầu cử: Là quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật trong việc được lựa chọn người đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền bầu cử bao gồm việc giới thiệu người ứng cử và bỏ phiếu bầu cử để lựa chọn người đại diện cho mình tại Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
- Quyền ứng cử: Là quyền cơ bản của công dân khi đáp ứng đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của pháp luật thì có thể thể hiện nguyện vọng của mình được ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân: Là việc Nhà nước tổ chức để cử tri cả nước trực tiếp biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước theo quy định của Luật trưng cầu ý dân. Nói như vậy có nghĩa là, quyền biểu quyết gắn liền với hoạt động trưng cầu ý dân.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm của Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân là:
- Lừa gạt;
- Mua chuộc;
- Cưỡng ép;
- Hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân.
Trong đó:
- Lừa gạt là thủ đoạn thực hiện hành vi gian dối, đưa ra các thông tin sai sự thật hoàn toàn hoặc một phần làm cho công dân không hiểu hoặc hiểu lầm mà không thực hiện quyền của mình;
- Mua chuộc là thủ đoạn thực hiện hành vi bằng cách dùng lợi ích vật chất (tiền, tài sản..), lợi ích phi vật chất để lôi kéo người khác làm theo ý của mình (không bầu cử cho người này hay không ứng cử vào ví trí này..);
- Cưỡng ép là thủ đoạn thực hiện hành vi dùng quyền, sức lực, vũ lực, de dọa dùng vũ lực tác động trái ý muốn của nạn nhân nhằm ngăn cản người đó thực hiện quyền;
- Hoặc sử dụng thủ đoạn khác với 03 hành vi: Lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép nhằm mục đích cản trở công dân thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân.
Hậu quả của hành vi: Quyền bầu cử, ứng cử và biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân của công dân bị xâm phạm. Tội phạm hoàn thành khi chủ thể thực hiện hành vi, không căn cứ vào hậu quả.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Động cơ và mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân. Nhưng mục đích chủ yếu là mong muốn cho công dân không thực hiện quyền bầu cử, ứng cử, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân.
2.4. Chủ thể:
Người phạm tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân là chủ thể bình thường, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do luật định (người từ đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015).
Pháp nhân thương mại không phải là chủ thể của Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân.
3. Khung hình phạt của Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân theo Điều 160 Bộ luật Hình sự năm 2015 có những khung hình phạt như sau:
- Khung hình phạt cơ bản: Bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
- Khung hình phạt tăng nặng: Bị phạt tù từ 01 năm đến 02 năm, khi có một trong các tình tiết tăng nặng sau:
- Khung hình phạt bổ sung: Bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Như vậy mức hình phạt cao nhất mà người phạm tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân là 02 năm tù, là loại tội phạm ít nghiêm trọng. Tuy nhiên, điều đó cũng không loại trừ trách nhiệm trong công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.
4. Tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân hiện nay được quy định tại khoản 2 Điều 160 Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể như sau:
- Có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 160 Bộ luật Hình sự 2015:
Là trường hợp có từ 02 người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm và đòi hỏi phải có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Khi đã xác định được trường hợp cụ thể đó là phạm tội có tổ chức, thì phải áp dụng tình tiết tăng nặng này đối với tất cả những người cùng thực hiện tội phạm (người tổ chức, người thực hành, người xúi giục và người giúp sức). Mức độ tăng nặng phụ thuộc vào quy mô tổ chức và vai trò của từng người trong việc tham gia vụ án.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn theo điểm b khoản 2 Điều 160 Bộ luật Hình sự 2015:
Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là người có chức vụ đã lợi dụng vị trí công tác, lợi dụng quyền hạn trong khi thực hiện công vụ để phạm tội.
- Dần đến hoãn ngày bầu cử, bầu cử lại hoặc hoãn việc trưng cầu ý dân theo điểm c khoản 2 Điều 160 Bộ luật Hình sự 2015:
Là hậu quả buộc phải dời ngày bầu cử sang một ngày khác và phải bầu cử lại các vị trí hoặc dời việc trưng cầu ý dân sang một ngày khác, vì vậy cần phải xử lý ở khung hình phạt tăng nặng.
5. Phân biệt với Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân:
Tiêu chí | Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (Điều 160 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân (Điều 161 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể bị xâm hại | Quyền chính trị cơ bản của công dân: Quyền bầu cử, ứng cử, biểu quyết khi trưng cầu ý dân. | Tính khách quan, trung thực, công bằng của kết quả bầu cử và trưng cầu ý dân. |
Chủ thể | Bất kỳ người nào đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, không đòi hỏi chủ thể đặc biệt. | Người có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát bầu cử hoặc trưng cầu ý dân (chủ thể đặc biệt). |
Hành vi khách quan | Lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác để cản trở công dân thực hiện quyền bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết. | Giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu hoặc dùng thủ đoạn khác làm sai lệch kết quả bầu cử, trưng cầu ý dân. |
Mức độ tác động trực tiếp | Cản trở công dân thực hiện quyền bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết. | Làm thay đổi, sai lệch kết quả cuối cùng của bầu cử hoặc trưng cầu ý dân. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 02 năm | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 03 năm |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Tính chất nguy hiểm | Nguy hiểm ở việc cản trở quyền chính trị của công dân và ảnh hưởng đến sự tham gia của cử tri. | Nguy hiểm ở việc làm sai lệch kết quả, tác động trực tiếp đến tính hợp pháp và minh bạch của cuộc bầu cử và kết quả của quá trình trưng cầu ý dân. |
6. Các biện pháp bảo vệ quyền bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
6.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bầu cử và trưng cầu ý dân:
Pháp luật là công cụ quan trọng nhất để bảo đảm quyền bầu cử, ứng cử và biểu quyết của công dân. Việc ban hành và thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về bầu cử, ứng cử và trưng cầu ý dân sẽ giúp khắc phục những khoảng trống, hạn chế và phù hợp với thực tiễn. Các văn bản pháp luật có liên quan (như Luật Trưng cầu ý dân năm 2015…) cần được áp dụng đồng bộ, rõ ràng, bảo đảm mọi công dân đều được tiếp cận và thực hiện quyền dân chủ của mình một cách công bằng, minh bạch.
6.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật:
Không phải mọi công dân đều nắm rõ quy định pháp luật về bầu cử, ứng cử hay trưng cầu ý dân. Vì vậy việc đẩy mạnh tuyên truyền qua báo chí, truyền hình, mạng xã hội và các hình thức trực tiếp tại cơ sở giúp người dân hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ của mình cũng như nhận diện được các hành vi vi phạm. Qua đó công dân có thể chủ động bảo vệ quyền chính trị của mình và kịp thời phản ánh nếu bị xâm phạm.
6.3. Bảo đảm tính minh bạch, khách quan trong quá trình tổ chức bầu cử và trưng cầu ý dân:
Cơ quan bầu cử, giám sát bầu cử cần thực hiện đúng quy định, công khai danh sách cử tri, ứng cử viên, thời gian, địa điểm và quy trình biểu quyết. Việc niêm yết danh sách, công khai thông tin, kiểm phiếu minh bạch và có sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội và nhân dân sẽ hạn chế nguy cơ gian lận và cưỡng ép, đồng thời củng cố niềm tin vào tính công bằng của cuộc bầu cử hoặc trưng cầu ý dân.
6.4. Xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm:
Mọi hành vi lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc thủ đoạn khác nhằm cản trở công dân thực hiện quyền bầu cử, ứng cử, biểu quyết cần được phát hiện và xử lý kịp thời. Các chế tài hành chính và hình sự theo Điều 160 Bộ luật Hình sự 2015 phải được áp dụng nghiêm khắc để răn đe và phòng ngừa hành vi vi phạm. Việc xử lý công khai các vụ vi phạm cũng là biện pháp quan trọng nhằm bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và bảo vệ quyền dân chủ của công dân.
6.5. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, báo chí và các tổ chức xã hội:
Cùng với cơ quan nhà nước, nhân dân, các tổ chức xã hội, báo chí và phương tiện truyền thông có vai trò rất lớn trong việc giám sát quá trình bầu cử, ứng cử và trưng cầu ý dân. Việc kịp thời phản ánh sai phạm, bất cập trong quá trình thực hiện sẽ tạo áp lực xã hội, buộc các cơ quan chức năng phải xử lý nghiêm túc, từ đó bảo vệ tốt hơn quyền lợi chính trị của công dân.
THAM KHẢO THÊM: