Cùng với Tội vô ý làm chết người thì Bộ luật Hình sự năm 2015 còn có quy định về tội vô ý làm chết người do người vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Về bản chất, thì tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính cũng là tội vô ý làm chết người nhưng tội phạm này cũng có những quy định riêng biệt.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính:
- 2 2. Cấu thành Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính:
- 4 4. Tình tiết tăng nặng của Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính:
- 5 5. Phân biệt Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính với các tội danh khác có liên quan:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính:
1. Khái quát về Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính:
1.1. Khái niệm Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính:
“Vô ý” theo Bộ luật hình sự 2015 gồm lỗi vố ý do cẩu thả hoặc vô ý vì quá tự tin. Cụ thể, Điều 11 Bộ luật Hình sự 2015 quy định vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
- Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được;
- Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Quy tắc là các quy định, chuẩn mực hoặc các công thức, kết luận tổng quát buộc mọi người phải tuân theo trong một hoạt động chung hoặc trong một công việc, nghề nghiệp nào đó.
Kết luận:
“Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính được hiểu là hành vi của một người trong quá trình thực hiện công việc, nghề nghiệp hoặc trong hoạt động hành chính, đã vi phạm những quy tắc bắt buộc về an toàn, chuyên môn hoặc quản lý, dẫn đến hậu quả chết người. Đặc điểm pháp lý nổi bật là hành vi gây hậu quả xuất phát từ lỗi vô ý, tức người phạm tội không mong muốn hậu quả chết người nhưng do cẩu thả, thiếu trách nhiệm hoặc quá tin tưởng vào khả năng ngăn ngừa hậu quả nên đã gây ra cái chết cho người khác.”
1.2. Ý nghĩa xã hội và chính sách hình sự của việc quy định tội danh này:
- Việc quy định Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính trong Bộ luật Hình sự 2015 thể hiện sự cần thiết phải ràng buộc trách nhiệm của cá nhân trong việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc nghề nghiệp và quy tắc hành chính.
- Sự thiếu trách nhiệm trong lĩnh vực y tế, giao thông, xây dựng hay quản lý hành chính… đều có thể gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là tước đi tính mạng con người.
- Chính sách hình sự của Nhà nước hướng tới mục tiêu răn đe, phòng ngừa chung và nâng cao ý thức tuân thủ quy tắc nghề nghiệp; đồng thời bảo đảm công bằng khi phân biệt hành vi vô ý thông thường với hành vi vô ý trong điều kiện có nghĩa vụ đặc biệt.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính:
Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính được quy định tại Điều 129 Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể:
“Điều 129. Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
1. Người nào vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính:
2.1. Khách thể:
Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính thuộc nhóm tội xâm phạm đến tính mạng. Vì thế, khách thể của tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính đó chính quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người.
Hành vi của tội phạm tác động đến con người đang sống, trong điều kiện sinh hoạt bình thường gây nên sự biến đối trạng thái của con người từ một cơ thể sống chuyển sang chấm dứt và khả năng sống. Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính và một số tội khác như: Tội giết người, tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát, tội vô ý làm chết người… có chung khách thể đều là quyền sống của con người.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà người phạm tội có nghĩa vụ phải tuân thủ. Cụ thể:
- Quy tắc nghề nghiệp là những vi phạm quy tắc thuộc phạm vi một ngành, một nghề, một lĩnh vực do Nhà nước, Bộ, ngành quy định (ví dụ như: Quy tắc điều trị trong các bệnh viện, quy tắc khai thác gỗ trong rừng, quy tắc an toàn khi mắc điện…);
- Quy tắc hành chính do pháp luật hành chính quy định hoặc do các cơ quan hành chính ban hành. Những quy tắc này có thể do các cơ quan hành chính Trung ương ban hành như: Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, các ngành… nhưng cũng có thể do các cơ quan hành chính ở địa phương hoặc một đơn vị sản xuất quy định (ví dụ như: đánh mìn khai thác đá trái với quy định của Bộ xây dựng làm chết người qua đường…).
Hậu quả của tội phạm là gây hậu quả chết người. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm hậu quả chết người xảy ra. Hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Hành vi vi phạm các quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính gây ra hậu quả chết người. Khi hậu quả chết người xảy ra thì hành vi vi phạm mới cấu thành tội vô ý làm chết người.
Mối quan hệ nhận quả giữa hành vi và hậu quả chết người là dấu hiệu phải được làm rõ trong mặt khách quan của tội phạm. Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả đã xảy ra là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Người có hành vi vi phạm chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự về hậu quả chết người xảy ra, nếu hành vi vi phạm của họ đã gây ra hậu quả này hay nói cách khác là giữa hành vi vi phạm của họ và hậu quả chết người có quan hệ nhân quả với nhau.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính chỉ cần là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi Bộ luật Hình sự quy định.
Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 quy định như sau: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật Hình sự 2015 có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật Hình sự 2015.
Theo đó, chủ thể của tội này là người đạt độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý. Lỗi vô ý là trường hợp người phạm tội khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thấy trước hành của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng tin rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vẫn thực hiện hành vi và đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội hoặc người phạm tội do thiếu sự chú ý cần thiết nên không nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của các hành vi đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội (theo Điều 11 Bộ luật Hình sự năm 2015).
Lỗi vô ý phạm tội bao gồm hai trường hợp: Lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý vì cẩu thả.
- Lỗi vô ý vì quá tự tin thể hiện ở việc người phạm tội biết hành vi của mình là nguy hiểm nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vẫn thực hiện hành vi và đã gây ra hậu quả nghiêm trọng;
- Đối với trường hợp phạm tội với lỗi vô ý vì cẩu thả thể hiện bằng việc người phạm tội vì cẩu thả không thấy trước được khả năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra.
3. Khung hình phạt của Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính:
Người phạm tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, tùy vào mức độ, tính chất của hành vi mà sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo các khung hình phạt quy định tại Điều 129 Bộ luật Hình sự như sau:
Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm trong trường hợp phạm tội làm chết 01 người.
Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm trong trường hợp làm chết 02 người trở lên.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Tình tiết tăng nặng của Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính:
Khoản 2 Điều 129 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tình tiết định khung tăng nặng của Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính như sau: “Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm”.
Đây là tình tiết định khung tăng nặng duy nhất được quy định trực tiếp trong Điều 125 Bộ luật Hình sự 2015.
Để áp dụng tình tiết định khung tăng nặng này, cần phải chứng minh có mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa hành vi vi phạm và hậu quả:
- Hành vi vi phạm: Người phạm tội đã vi phạm một quy tắc cụ thể trong lĩnh vực nghề nghiệp (ví dụ: bác sĩ vi phạm quy trình phẫu thuật, kỹ sư xây dựng vi phạm quy chuẩn an toàn lao động) hoặc quy tắc hành chính (ví dụ: người quản lý kho hóa chất vi phạm quy định về phòng cháy chữa cháy);
- Hậu quả xảy ra: Cái chết của từ 02 người trở lên;
- Mối quan hệ nhân quả: Hành vi vi phạm phải là nguyên nhân trực tiếp, quyết định dẫn đến hậu quả chết từ 02 người trở lên. Nếu cái chết của một trong các nạn nhân là do một nguyên nhân độc lập khác thì không thể cộng dồn để áp dụng khung tăng nặng theo khoản 2 Điều 129 Bộ luật Hình sự 2015;
- Lỗi: Lỗi đối với hậu quả là lỗi vô ý. Nếu hậu quả chết người cũng xảy ra nhưng được thực hiện bởi lỗi cố ý (nhận thức rõ hành vi nguy hiểm và mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy ra) thì sẽ bị truy cứu về “Tội giết người” (Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015) với khung hình phạt cao hơn, không phải khoản 2 Điều 129 Bộ luật HÌnh sự 2015.
Pháp luật quy định tình tiết định khung hình phạt tăng nặng trong trường hợp này xuất phát từ những lý do:
- Cá thể hóa hình phạt: Giúp Tòa án đưa ra một hình phạt tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hậu quả mà hành vi phạm tội đã gây ra. Hành vi gây ra cái chết cho 02 người trở lênrõ ràng nguy hiểm và đáng bị trừng trị nghiêm khắc hơn hành vi chỉ làm chết một người (theo khoản 1 Đièu 129 Bộ luật Hình sự 2015).
- Tăng cường tính răn đe: Việc quy định một khung hình phạt riêng biệt và nghiêm khắc hơn cho trường hợp làm chết nhiều người nhằm nâng cao ý thức tuân thủ các quy tắc nghề nghiệp và quy tắc hành chính trong xã hội. Từ đó buộc những người hoạt động trong các lĩnh vực có nguy cơ cao (y tế, xây dựng, giao thông…) phải cẩn trọng hơn trong công việc của mình để tránh gây ra hậu quả không mong muốn.
5. Phân biệt Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính với các tội danh khác có liên quan:
Tiêu chí | Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc hành chính (Điều 129 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội vô ý làm chết người (Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (Điều 260 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể | Quyền sống của con người và trật tự an toàn xã hội trong lĩnh vực nghề nghiệp/hành chính. | Quyền sống của con người. | Quyền sống của con người. | Quyền sống và trật tự an toàn giao thông đường bộ. |
Hành vi | Vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính khi thực hiện công việc, nhiệm vụ, dẫn đến chết người. | Hành vi vô ý, bất cẩn trong sinh hoạt, không gắn với nghĩa vụ nghề nghiệp/hành chính. | Cố ý tước đoạt tính mạng người khác. | Vi phạm quy định về an toàn giao thông (tốc độ, làn đường, nồng độ cồn…), gây hậu quả chết người. |
Đối tượng tác động | Người bị hại chết do vi phạm từ hoạt động nghề nghiệp/hành chính (ví dụ: y tế, xây dựng, quản lý công cộng…). | Người bị hại chết do lỗi vô ý thông thường (ví dụ: để trẻ nhỏ chơi gần ao hồ, bất cẩn khi sử dụng điện…). | Bất kỳ cá nhân nào là mục tiêu giết hại. | Người tham gia giao thông hoặc người bị ảnh hưởng từ hành vi vi phạm giao thông. |
Lỗi | Vô ý, có thể là cô ý vì quá tự tin hoặc do cẩu thả trong việc thực hiện quy tắc nghề nghiệp – hành chính. | Vô ý, có thể là vô ý vì quá tự tin hoặc do cẩu thả nhưng không gắn với quy tắc nghề nghiệp – hành chính. | Cố ý (có thể là cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp). | Cố ý đối với hành vi nhưng vô ý đối với hậu quả chết người. |
Hậu quả | Chết người (01 hoặc nhiều người). | Chết người (01 hoặc nhiều người). | Chết người. | Chết người hoặc gây thương tích nghiêm trọng. |
Khung hình phạt | Khung 1: phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. | Khung 1: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Khung 2: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Chuẩn bị phạm tội: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm. | Khung 1: Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khung 4: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Mức độ nguy hiểm cho xã hội | Cao hơn Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015 vì gắn với trách nhiệm nghề nghiệp – hành chính và thường gây hậu quả nghiêm trọng hơn. | Thấp hơn vì chỉ mang bản chất vô ý thông thường, không gắn trách nhiệm nghề nghiệp và hành chính. | Nguy hiểm đặc biệt cao vì đây là tội đặc biệt nghiêm trọng. | Cao, vì liên quan trực tiếp đến trật tự an toàn giao thông – lĩnh vực có nguy cơ gây chết người hàng loạt. |
6. Bản án điển hình của Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính:
6.1. Bản án 66/2019/HS-PT ngày 06/03/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai:
- Nội dung bản án:
Bị cáo Nguyễn Văn H được Công ty Cổ phần dịch vụ xây dựng Q thuê thi công các hạng mục công trình điện tại Trạm điện V9 thuộc ấp T, xã V, huyện N.
Ngày 10/11/2017, bị cáo H đã thuê và bố trí người không được đào tạo, huấn luyện về công tác an toàn điện để thực hiện công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động.
Ngoài ra, H không thực hiện đầy đủ và không đúng trình tự các biện pháp an toàn theo quy định của quy phạm kỹ thuật an toàn điện.
Vì vậy, cùng với sự thiếu trách nhiệm của các bị cáo Phạm Đức T5, Phạm Ngọc T6 là nhân viên Chi nhánh điện lực N đã để xảy ra sự cố, anh Lê Hữu M đang thi công trên trụ điện số 08, đường hẻm vào Trường tiểu học V2 thuộc ấp T, xã V, huyện N bị điện giật chết tại hiện trường.
Toà án nhân dân huyện N tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp”, xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù là có căn cứ.
- Quyết định của Tòa án:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) năm tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 10/11/2017 đến ngày 16/11/2017.
6.2. Bản án 56/2020/HS-ST ngày 19/06/2020 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai:
- Nội dung bản án:
Vào khoảng 20 giờ ngày 08/10/2019, Dương V đã thực hiện hành vi vi phạm quy tắc nghề nghiệp do điều khiển xe nâng không tuân thủ quy tắc vận hành an toàn khi lái xe nâng dẫn đến gây tai nạn làm chết anh Nguyễn Công B tại khu vực đường nội bộ giữa nhà máy UTILITY 1 và nhà máy UTILITY 2 trong Công ty Hyosung, khu công nghiệp NT 5, huyện NT, tỉnh Đồng Nai thì bị phát hiện xử lý.
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, đã thực hiện hoàn thành hành vi phạm tội nên có đủ căn cứ và cơ sở để xác định hành vi của bị cáo phạm tội “ Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 129 Bộ luật hình sự.
Do đó, cáo trạng số 55/CT.VKS-NT ngày 12/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện NT truy tố đối với bị cáo là có căn cứ.
- Quyết định của Tòa án:
Xử phạt bị cáo Dương V 02 (hai ) năm tù, nhưng cho hưởng án treo.
Thời gian thử thách là 04 ( bốn ) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
6.3. Bản án 08/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội:
- Nội dung bản án:
Bị cáo Nguyễn Duy T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng. Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Duy T tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản thu giữ vật chứng, sơ đồ hiện trường, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được Cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án thể hiện.
Bị cáo T là công nhân Đội quản lý điện số 1 thuộc Công ty điện lực K quản lý địa bàn xã T, huyện K, T phố Hà Nội đã được tập huấn về an toàn điện và quy định của ngành điện lực “ Khi tổ chức, cá nhân ngoài ngành điện lực tham gia hoạt động trên mạng lưới điện phải có lệnh công tác hoặc có văn bản đồng ý của lãnh đạo Công ty điện lực thì mới được hoạt động”.
Tuy nhiên, việc Nguyễn Duy T thuê lao động tự do là anh Hoàng Gia G sau đó anh G đã rủ anh M, anh C và anh Nhật là những người không được đào tạo, huấn luện về công tác an toàn điện để thực hiện công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động đi cắt, hạ, kéo dây điện trên các cột điện do Công ty Điện lực K quản lý nhưng không báo cáo và không có văn bản chỉ đạo đồng ý của người có thẩm quyền vi phạm quy chế của Ngành điện, hậu quả dẫn đến việc anh Ngô Văn M bị điện giật chết.
Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Duy T đã đủ yếu tố cấu T tội “Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp”, theo khoản 1 Điều 129 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan.
- Quyết định của Tòa án:
Xử phạt: Nguyễn Duy T 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
THAM KHẢO THÊM: