Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt là hành vi của người chỉ huy, điều khiển phương tiện đường sắt vi phạm các quy định bảo đảm an toàn gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Tội danh này được quy định tại Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015 nhằm nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, bảo vệ trật tự an toàn trong hoạt động giao thông đường sắt.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt:
- 2 2. Cấu thành Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015:
- 5 5. Phân biệt với Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thủy:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt:
1. Khái quát về Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt:
1.1. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt là gì?
Trong thực tế, mặc dù hệ thống đường sắt ở Việt Nam chiếm tỷ lệ nhỏ so với các loại hình vận tải khác nhưng tai nạn đường sắt vẫn xảy ra và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Một số vụ tai nạn giao thông đường sắt xảy ra liên quan đến: Lái tàu không tuân thủ tín hiệu, thiếu chú ý quan sát, điều khiển phương tiện trong tình trạng sử dụng rượu bia, chất kích thích hoặc không có chứng chỉ chuyên môn hợp lệ… hoặc các hành vi vi phạm quy định pháp luật khác.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt như sau:
“Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt là hành vi của người chỉ huy, lái tàu hoặc các chủ thể có trách nhiệm trực tiếp điều khiển phương tiện giao thông đường sắt nhưng không tuân thủ đúng quy định pháp luật về an toàn giao thông, từ đó dẫn đến hậu quả gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người hoặc gây thiệt hại lớn về tài sản. Đây là tội phạm xâm phạm trật tự an toàn công cộng, cụ thể là an toàn giao thông đường sắt – một lĩnh vực đòi hỏi tính chính xác, nghiêm ngặt và kỷ luật cao.”
1.2. Ý nghĩa của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt trong pháp luật hình sự:
Quy định tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt trong Bộ luật Hình sự 2015 có nhiều ý nghĩa quan trọng:
- Thứ nhất, bảo đảm an toàn giao thông đường sắt: Giao thông đường sắt được xem là lĩnh vực đặc thù, chỉ một sai sót nhỏ có thể gây ra thảm họa với hậu quả lớn về người và tài sản. Việc hình sự hóa hành vi vi phạm giúp nâng cao tính răn đe và phòng ngừa tai nạn trong lĩnh vực này.
- Thứ hai, nâng cao trách nhiệm cá nhân: Người lái tàu và những người chỉ huy vận hành buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định chuyên môn, coi trọng tính mạng, sức khỏe con người và tài sản xã hội.
- Thứ ba, bảo vệ lợi ích Nhà nước, tổ chức và công dân: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt góp phần bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe của hành khách; đồng thời hạn chế thiệt hại lớn đối với tài sản của Nhà nước và doanh nghiệp vận tải đường sắt.
- Thứ tư, góp phần ổn định trật tự xã hội: Đường sắt là huyết mạch giao thông, vì vậy việc bảo đảm an toàn trong hoạt động vận tải đường sắt không chỉ phục vụ đi lại mà còn phục vụ vận chuyển hàng hóa và góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt:
Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt hiện nay đang được quy định tại Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào chỉ huy, điều khiển phương tiện giao thông đường sắt mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường sắt thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Không có giấy phép, bằng hoặc chứng chỉ chuyên môn tương ứng với nhiệm vụ được giao;
b) Trong tình trạng sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người chỉ huy hoặc người có thẩm quyền điều khiển, giữ gìn trật tự, an toàn giao thông đường sắt;
đ) Làm chết 02 người;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
h) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
d) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
4. Phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả thực tế gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác, nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
5. Người chỉ huy, điều khiển phương tiện giao thông đường sắt mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường sắt gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt:
2.1. Khách thể:
Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt xâm phạm trực tiếp đến: Trật tự an toàn giao thông đường sắt.
Đối tượng tác động của tội phạm là: Các phương tiện giao thông đường sắt.
Trong đó, phương tiện giao thông đường sắt là đầu máy, toa xe, phương tiện chuyên dùng di chuyển trên đường sắt (khoản 26 Điều 3 Luật Đường sắt 2017). Tàu là phương tiện giao thông đường sắt được lập bởi đầu máy và toa xe hoặc đầu máy chạy đơn, toa xe động lực, phương tiện động lực chuyên dùng di chuyển trên đường sắt.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan cuả Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt có thể được hiểu hiện qua:
- Chạy quá nhanh so với tốc độ quy định bình thường đối với loại phương tiện đang điều khiển;
- Chở quá trọng tải cho phép;
- Chạy không đúng tuyến đường;
- Không có còi báo hiệu khi qua những nơi có đường cắt ngang…
Theo đó, hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường sắt là hành vi của người chỉ huy, người điều khiển phương tiện giao thông đường sắt đã không làm hoặc làm không đúng quy định về an toàn giao thông đường sắt.
Đối với hành vi chỉ huy phương tiện giao thông đường sắt, khi xác định hành vi vi phạm chủ yếu căn cứ vào các quy định về việc chỉ huy cho đoàn tàu chở khách, chở hàng hoặc đầu máy, toa xe và các thiết bị chuyên dùng hoạt động trên đường sắt ra vào ga qua các đường giao cắt với đường bộ.
Hiện nay, Điều 9 Luật Đường sắt năm 2017 đã quy định cụ thể các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động đường sắt. Trong đó, người chỉ huy và điều khiển phương tiện giao thông đường sắt không được thực hiện những hành vi như sau:
- Làm sai lệch công trình, hệ thống báo hiệu trên đường sắt; làm che lấp hoặc làm sai lạc tín hiệu giao thông đường sắt;
- Nối vào tàu khách các toa xe vận tải động vật, hàng hoá có mùi hôi thối, chất dễ cháy, chất dễ nổ, chất độc hại và hàng nguy hiểm khác;
- Điều khiển tàu chạy quá tốc độ quy định;
- Nhân viên đường sắt trực tiếp phục vụ chạy tàu trong khi làm nhiệm vụ mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn hoặc có chất kích thích khác mà pháp luật cấm sử dụng.
Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt. Người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp hậu quả nghiêm trọng xảy ra:
- Làm chết người;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
- Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng trở lên.
Nếu hậu quả của hành vi chưa nghiêm trọng theo quy định tại khoản 1 Điều 267 Bộ luật hình sự 2015 thì có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng vẫn phải chịu xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt được thực hiện với lỗi vô ý, có thể là vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả.
- Vô ý vì quá tự tin: Là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
- Vô ý vì cẩu thả: Là trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người chỉ huy hoặc người điều khiển các phương tiện giao thông đường sắt mới là chủ thể của tội phạm này.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm này phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015.
3. Khung hình phạt của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt:
Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt theo Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
- Khung 4: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015:
- Không có giấy phép, bằng hoặc chứng chỉ chuyên môn tương ứng với nhiệm vụ được giao theo điểm a khoản 2 Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015:
Người điều khiển phương tiện giao thông đường sắt mà không có giấy phép, bằng cấp hoặc chứng chỉ chuyên môn thể hiện sự thiếu năng lực và không đáp ứng đầy đủ điều kiện pháp lý chuyên môn để thực hiện nhiệm vụ. Đây là tình tiết tăng nặng vì điều khiển phương tiện đường sắt đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao, chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể gây ra nhiều tai nạn thảm khốc. Hành vi này không chỉ vi phạm nghiêm trọng quy định quản lý Nhà nước mà còn đặt tính mạng, tài sản của nhiều người vào tình trạng nguy hiểm. Vì vậy bị xử lý ở khung hình phạt tăng nặng của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt.
- Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác theo điểm b khoản 2 Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015:
Việc điều khiển phương tiện giao thông đường sắt khi trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt mức cho phép; hoặc có sử dụng ma túy, chất kích thích mạnh khác là hành vi đặc biệt nguy hiểm. Người điều khiển trong tình trạng này mất khả năng kiểm soát, giảm phản xạ và dễ dẫn đến những quyết định sai lầm gây tai nạn nghiêm trọng. Đây là tình tiết tăng nặng khung hình phạt của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt bởi nó thể hiện sự coi thường pháp luật và sự an toàn của cộng đồng.
- Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn theo điểm c khoản 2 Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015:
Hành vi này thể hiện thái độ vô trách nhiệm, thiếu nhân đạo và bỏ mặc hậu quả. Sau khi gây tai nạn, thay vì tìm cách khắc phục và cứu giúp nạn nhân thì người phạm tội lại trốn tránh trách nhiệm hoặc cố tình không cứu giúp. Điều này không chỉ làm tăng mức độ thiệt hại về tính mạng, sức khỏe mà còn gây bức xúc trong dư luận xã hội. Vì vậy, pháp luật quy định đây là tình tiết định khung tăng nặng của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt.
- Không chấp hành hiệu lệnh của người chỉ huy hoặc người có thẩm quyền điều khiển, giữ gìn trật tự, an toàn giao thông theo điểm d khoản 2 Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015:
Trong hệ thống đường sắt thì việc tuân thủ hiệu lệnh của người chỉ huy hoặc người có thẩm quyền giữ gìn trật tự an toàn giao thông là bắt buộc. Người điều khiển phương tiện mà cố tình chống đối hoặc không chấp hành hiệu lệnh sẽ dẫn đến nguy cơ xảy ra tai nạn nghiêm trọng và gây mất an toàn cho nhiều chuyến tàu. Đây là tình tiết tăng nặng khung hình phạt của tội danh này vì hành vi này không chỉ vi phạm kỷ luật vận hành đường sắt mà còn tiềm ẩn nguy cơ khôn lường cho xã hội.
- Làm chết 02 người theo điểm đ khoản 2 Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015:
Nếu hành vi vi phạm của người điều khiển phương tiện đường sắt dẫn đến cái chết của 02 người thì mức độ nguy hiểm của hành vi đã vượt xa hậu quả thông thường. Tính mạng con người là quyền tối cao được pháp luật bảo hộ, do đó gây ra cái chết cho từ 02 nạn nhân trở lên được coi là tình tiết đặc biệt nghiêm trọng. Bắt buộc phải áp dụng mức hình phạt nặng hơn so với trường hợp phạm tội thông thường khác.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200% theo điểm e khoản 2 Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp nhiều người bị thương với mức độ thương tật nặng với tổng tỷ lệ từ 122% đến 200% đã phản ánh hậu quả nghiêm trọng của hành vi. Số lượng nạn nhân nhiều cùng với mức độ thương tích cao đã làm tăng tính chất nguy hiểm của tội phạm, từ đó pháp luật buộc phải xử lý nghiêm khắc hơn đối với trường hợp này để đảm bảo tính răn đe cho xã hội và phù hợp với mức độ hậu quả của hành vi trên thực tế.
- Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng theo điểm g khoản 2 Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015:
Nếu hậu quả của hành vi vi phạm dẫn đến thiệt hại tài sản lớn (từ 500 triệu đồng đến dưới 1,5 tỷ đồng) thì đây là dấu hiệu thể hiện mức độ nguy hại cao về kinh tế – xã hội. Đường sắt là loại hình vận tải đặc thù, chỉ một vụ tai nạn cũng có thể gây hư hại nghiêm trọng về tài sản (đầu máy, toa tàu, đường ray hoặc cơ sở hạ tầng) hoặc thậm chí là tính mạng con người. Do đó pháp luật coi đây là tình tiết tăng nặng khung hình phạt của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015:
- Làm chết 03 người trở lên theo điểm a khoản 3 Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015:
Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khi số người tử vong từ 03 trở lên cho thấy hành vi vi phạm đã trực tiếp xâm phạm nghiêm trọng đến tính mạng nhiều công dân. Đây là tình tiết tăng nặng cao nhất về hậu quả tính mạng trong Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt; hậu quả này phản ánh mức độ nguy hiểm đặc biệt và đòi hỏi hình phạt nghiêm khắc nhất.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên theo điểm b khoản 3 Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp này thể hiện mức độ nguy hại rất cao khi nhiều nạn nhân bị thương nặng, thậm chí tàn tật vĩnh viễn. Tổng tỷ lệ thương tật từ 201% trở lên cho thấy mức độ tổn hại sức khỏe tập trung và nghiêm trọng, buộc pháp luật phải áp dụng mức hình phạt cao nhất của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt để đảm bảo tính răn đe.
- Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên theo điểm c khoản 3 Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015:
Đây là tình tiết tăng nặng phản ánh hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về kinh tế. Thiệt hại từ 1.5 tỷ đồng trở lên thường gắn liền với những vụ tai nạn lớn, hư hỏng nặng hệ thống đường ray hoặc các công trình hạ tầng đường sắt khác. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến tài sản Nhà nước, doanh nghiệp mà còn gây đình trệ giao thông cũng như gây ra nhiều thiệt hại gián tiếp cho nền kinh tế. Vì vậy khung hình phạt nặng nhất theo khoản 3 Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt được áp dụng trong trường hợp này.
5. Phân biệt với Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thủy:
Tiêu chí | Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thủy (Điều 272 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt (Điều 267 Bộ luật Hình sự 2015) |
Chủ thể thực hiện hành vi | Người điều khiển phương tiện giao thông đường thủy (tàu, thuyền, ca nô…) | Người chỉ huy, điều khiển phương tiện giao thông đường sắt (lái tàu, trưởng tàu hoặc các nhân viên đường sắt có nhiệm vụ điều khiển) |
Hành vi vi phạm | Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường thủy (điều khiển sai quy trình, vi phạm tín hiệu hoặc thiếu kỹ năng cần thiết trong quá trình hành nghề…) | Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường sắt (không tuân thủ hiệu lệnh, sai tín hiệu hoặc vi phạm quy tắc vận hành…) |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khung 4: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. | Khung 1: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khung 4: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
6. Bản án điển hình của Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt:
- Tên bản án:
Bản án số 78/2025/HS-ST ngày 13 tháng 06 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt.
- Nội dung vụ án:
Trực ban chạy tàu Nguyễn Thanh C và nhân viên gác đường ngang Võ Thị U là người chỉ huy phương tiện giao thông đường sắt. Theo Quy tắc quản lý kỹ thuật ga T5 thì trình tự tác nghiệp báo chắn đường ngang của nhân viên trực ban chạy tàu ga với nhân viên gác đường ngang khi tác nghiệp đón tiển tàu đối với tàu thông qua gà Trì Bình phải báo 03 bước riêng biệt gồm:
+ Báo giờ theo kế hoạch;
+ Báo giờ tàu xin đường và báo giờ tàu chạy.
Theo quy định về trình tự tác nghiệp của nhân viên gác đường ngang Km 901+580 thì nhân viên gác đường ngang phải thực hiện 6 bước, trong đó quy định mở Biển đỏ quay, khai thông đường sắt sau khi đã kéo hai cần chắn hai bên hết mặt đường. Tuy nhiên, ngày 07-3-2021, khi tàu SH3 chạy qua ga N đã vào khu G-B thì nhân viên điều độ cho thay đổi kế hoạch, tàu SH3 chạy thông qua ga Tvà giữ tàu AH2 tại ga B.
Sau khi nhận thông tin từ nhân viên điều độ, trực ban chạy tàu Nguyễn Thanh C điện báo cho nhân viên gác chắn Km 901+580 và Km 902+162, báo gộp bước 2 và bước 3 đối với tàu thông qua ga với nội dung “AH2 hủy, SH3 xin đường 6 giờ 22, chạy 6 giờ 28” là thực hiện không đúng theo Quy tắc quản lý kỹ thuật ga T. Đồng thời, Nguyễn Thanh C biết khi C báo cho gác chắn Km 901+580 thì tàu SH3 đã vào khu gian ga T – B nhưng C vẫn báo gộp bước 2 và bước 3 thành một bước làm nhân viên gác chắn Võ Thị U cứ nghĩ như thường lệ là khi trực ban chạy tàu báo giờ tàu xin đường thì tàu xin đường chưa vào khu G – B tức thời gian tàu xin đường đến gác chắn Km 901+580 theo hướng Bắc – Nam còn trên 5 phút, nên Uyên chủ quan đến khi phát hiện tàu SH3 đang đến gần thì U hoảng hốt, lúng túng dẫn đến không thực hiện đúng quy trình tác nghiệp của nhân viên gác đường ngang, U ra mở Biển đỏ quay khai thông đường sắt khi chưa kéo hai cần chắn hai bên đường ngang dẫn đến tai nạn.
Như vậy, trong trường hợp này nhân viên Trực ban chạy tàu Nguyễn Thanh C thực hiện không đúng theo quy tắc quản lý kỹ thuật ga T và nhân viên gác đường ngang Km 901+580 Võ Thị U thực hiện không đúng quy trình tác nghiệp của nhân viên gác đường ngang Km 901+580 nên lỗi của 02 bị cáo là ngang nhau trong việc dẫn đến vụ tai nạn giữa tàu SH3 với xe ô tô 76A – 129.13. Hậu quả làm Nguyễn Thiên P chết, anh Nguyễn Chí M bị tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 45% và xe ô tô nhãn hiệu MITSUBIS, loại xe XPANDER mang biển kiểm soát 76A-129.13 bị thiệt hại là 316.633.000 đồng.
Do đó, hành vi của hai bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt” theo điểm a, d khoản 1 Điều 267 của Bộ luật Hình sự 2015 như Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ, đúng người đúng tội và đúng pháp luật.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh C và bị cáo Võ Thị U phạm tội “”phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt”.
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh C02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 04 (bốn) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 13-6-2025).
+ Xử phạt bị cáo Võ Thị U01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 03 (ba) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 13-6-2025).
THAM KHẢO THÊM: