Chế độ hôn nhân một vợ, một chồng là nguyên tắc nền tảng của pháp luật Việt Nam, bảo vệ sự bền vững gia đình và trật tự xã hội. Tuy nhiên thực tế vẫn tồn tại tình trạng người có vợ hoặc chồng chung sống, kết hôn với người khác và vi phạm pháp luật. Hiện nay Bộ luật Hình sự 2015 quy định tội vi phạm chế độ một vợ một chồng tại Điều 182.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:
- 5 5. Phân biệt với Tội cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện:
- 6 6. Hành vi chung sống như vợ chồng với người đang có gia đình bị xử phạt thế nào?
- 7 7. Hành vi ngoại tình với người cùng giới có vi phạm pháp luật không?
- 8 8. Bản án điển hình của Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:
1. Khái quát chung về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:
1.1. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng là gì?
Trong đời sống xã hội hiện nay, mặc dù chế độ hôn nhân một vợ, một chồng đã được pháp luật ghi nhận rõ ràng và xã hội coi trọng, song tình trạng vi phạm vẫn diễn ra phổ biến. Không ít trường hợp người có vợ hoặc chồng vẫn kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác; hoặc người độc thân dù biết rõ đối phương đã có gia đình nhưng vẫn thiết lập quan hệ trái pháp luật.
Những hành vi này đã dẫn đến nhiều hệ quả nghiêm trọng: tan vỡ gia đình, tranh chấp ly hôn, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của vợ, chồng và con cái, đồng thời gây bất ổn trong đời sống xã hội. Thực trạng này cho thấy nhu cầu cấp thiết phải xử lý nghiêm minh để bảo vệ hạnh phúc gia đình và trật tự công cộng.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng như sau:
“Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được hiểu là hành vi của người đang có vợ hoặc có chồng mà vẫn kết hôn, hoặc chung sống như vợ chồng với người khác; hoặc hành vi của người chưa có vợ, chưa có chồng nhưng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ, có chồng. Đây là hành vi đi ngược lại nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng, nguyên tắc cơ bản được pháp luật Việt Nam quy định nhằm bảo đảm sự bền vững và lành mạnh của quan hệ hôn nhân, gia đình.”
1.2. Ý nghĩa của Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng trong pháp luật hình sự:
Việc quy định tội danh này trong Bộ luật Hình sự mang nhiều ý nghĩa quan trọng:
- Thứ nhất: Bảo vệ hạnh phúc gia đình và quyền lợi chính đáng của vợ, chồng và con cái, ngăn chặn những hành vi phá vỡ mối quan hệ hôn nhân hợp pháp.
- Thứ hai: Khẳng định nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân Việt Nam, giữ gìn sự trong sáng và bền vững của gia đình, tế bào của xã hội.
- Thứ ba: Răn đe và phòng ngừa chung, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, đạo đức và trách nhiệm trong đời sống hôn nhân.
- Thứ tư: Góp phần bảo đảm trật tự xã hội, hạn chế tranh chấp, mâu thuẫn gia đình dẫn đến hậu quả nghiêm trọng về tinh thần và vật chất.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:
Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng hiện nay được quy định tại Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:
2.1. Khách thể:
Điều 36 Hiến pháp 2013 quy định: Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
Điều 2 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định về những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình, trong đó có nguyên tắc: Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Điều 4 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định: Nhà nước có chính sách, biện pháp bảo hộ hôn nhân và gia đình, tạo điều kiện để nam, nữ xác lập hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và thực hiện đầy đủ chức năng của mình; tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình; vận động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc.
Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng xâm phạm trực tiếp đến: Nguyên tắc một vợ một chồng của chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ đã được Hiến pháp 2013 và Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định.
2.2. Mặt khách quan:
Mặt khách quan của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng thể hiện ở hành vi của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.
- Người đang có vợ hoặc có chồng là người đã kết hôn theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và chưa chấm dứt quan hệ vợ chồng;
- Người chưa có vợ, có chồng là người chưa kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình hoặc đã từng kết hôn nhưng đã chấm dứt quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn áp dụng có giải thích về các thuật ngữ liên quan như sau:
Thứ nhất, “kết hôn” là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn (khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình 2014).
Thứ hai, “người đang có vợ hoặc có chồng mà có hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác”: Là người đã kết hôn (có đăng ký kết hôn hoặc hôn nhân thực tế được pháp luật công nhận) và chưa chấm dứt quan hệ hôn nhân bằng một quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án (về công nhận thuận tình ly hôn, xử cho ly hôn hay tiêu hôn vì vi phạm điều kiện kết hôn do luật định) hoặc một bên chết, mất tích đã bị Toà án tuyên bố mất tích …
Thứ ba, “chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng”. Theo tinh thần tại Mục 3.1 Thông tư Liên tịch Số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn áp dụng các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó.
Tuy nhiên, hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát…
- Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm: Là hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng mà còn vi phạm, nếu trước đó đã bị người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn thực hiện hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng.
Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được xem là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện một trong các hành vi nêu trên. Và đây là tội phạm có cấu thành vật chất, hậu quả là một trong những yếu tố để xác định cấu thành của tội phạm.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng là người đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự.
Người phạm tội có thể là người đang có vợ, có chồng hoặc chưa có vợ, có chồng.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi đó.
3. Khung hình phạt của Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:
Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo ĐIều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy định tai khoản 2 Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 với khung hình phạt là phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Cụ thể như sau:
- Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát theo điểm a khoản 2 Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015:
Đây là tình tiết thể hiện hậu quả đặc biệt nghiêm trọng của hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Việc kết hôn hoặc chung sống trái pháp luật không chỉ phá vỡ hạnh phúc gia đình mà còn có thể gây ra áp lực tâm lý, tổn thương tinh thần lớn đến mức khiến vợ, chồng hoặc con của một bên tìm đến cái chết. Hậu quả này vượt xa giới hạn thông thường, trực tiếp xâm phạm quyền sống, quyền cơ bản nhất của con người, đồng thời gây bức xúc sâu sắc trong xã hội. Do đó pháp luật quy định đây là tình tiết định khung tăng nặng với hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, nhằm xử lý nghiêm khắc và răn đe mạnh mẽ.
- Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó theo điểm b khoản 2 Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015:
Trong trường hợp Tòa án đã có phán quyết hợp pháp, rõ ràng về việc hủy kết hôn trái pháp luật hoặc buộc chấm dứt quan hệ chung sống như vợ chồng trái quy định, nhưng người phạm tội vẫn cố tình duy trì quan hệ bất hợp pháp, điều đó cho thấy thái độ coi thường pháp luật và sự cố ý chống đối Cơ quan tư pháp. Hành vi này không chỉ tiếp tục xâm phạm đến chế độ hôn nhân một vợ một chồng mà còn làm giảm hiệu lực và uy tín của quyết định Tòa án. Vì vậy pháp luật coi đây là tình tiết định khung tăng nặng nhằm trừng trị hành vi tái phạm nguy hiểm và bảo vệ tính nghiêm minh của hệ thống tư pháp nói chung.
5. Phân biệt với Tội cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện:
Tiêu chí | Tội cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện (Điều 181 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể bị xâm phạm | Quyền tự do hôn nhân, quyền tự quyết định kết hôn hoặc ly hôn, quyền duy trì hôn nhân tự nguyện và tiến bộ. | Chế độ hôn nhân một vợ, một chồng – nguyên tắc cơ bản trong Luật Hôn nhân gia đình. |
Đối tượng bị hại | Người bị ép buộc hoặc bị cản trở trong việc kết hôn, ly hôn hoặc duy trì hôn nhân. | Người đang có vợ/chồng hoặc người chưa có vợ hoặc chồng nhưng biết rõ đối phương đang có vợ/chồng. Đồng thời ảnh hưởng đến vợ/chồng hoặc con của họ. |
Hành vi phạm tội | Tội cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện gồm các hành vi:
| Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng gồm các hành vi:
|
Dấu hiệu bắt buộc để truy cứu | Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. | Có một trong 02 điều kiện:
|
Khung hình phạt | Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm. | Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Khung 2: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. |
Bản chất pháp lý | Bảo vệ tự do ý chí trong hôn nhân, chống lại việc cưỡng ép và cản trở quyền kết hôn hoặc ly hôn. | Bảo vệ nguyên tắc một vợ một chồng, chống lại việc tồn tại quan hệ hôn nhân hoặc chung sống trái pháp luật. |
Ý nghĩa xã hội | Góp phần khẳng định hôn nhân phải dựa trên sự tự nguyện, tiến bộ và không bị ép buộc. | Góp phần giữ gìn sự bền vững của gia đình, hạn chế tệ nạn ngoại tình và hôn nhân trái pháp luật. |
6. Hành vi chung sống như vợ chồng với người đang có gia đình bị xử phạt thế nào?
Căn cứ khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về các hành vi bị cấm để bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình như sau:
- Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
- Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
- Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
- Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
- Yêu sách của cải trong kết hôn;
- Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
- Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
- Bạo lực gia đình;
- Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.
Hành vi này bị xử phạt hành chính theo điểm b khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP. Cụ thể:
Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi: Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác.
Như vậy: Đối với hành vi chung sống như vợ chồng với người đang có gia đình thì mức phạt tiền thấp nhất là 3.000.000 đồng và cao nhất là 5.000.000 đồng theo quy định của pháp luật.
7. Hành vi ngoại tình với người cùng giới có vi phạm pháp luật không?
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có bất kỳ văn bản nào đưa ra khái niệm chính thức về ngoại tình. Tuy nhiên, từ thực tiễn xã hội có thể hiểu, ngoại tình là việc một người đã có vợ hoặc có chồng nhưng lại nảy sinh quan hệ tình cảm, thậm chí chung sống như vợ chồng với người khác ngoài quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Đây không chỉ là hành vi đi ngược lại chuẩn mực đạo đức, làm tổn thương đến sự bền vững của gia đình mà còn xâm phạm quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình” (Điều 19 Luật Hôn nhân gia đình 2014). Trong những trường hợp ngoại tình thông thường nếu có đủ dấu hiệu cấu thành tội vi phạm chế độ một vợ một chồng, hành vi này hoàn toàn có thể bị xử lý hình sự.
Vấn đề đặt ra là: Ngoại tình với người cùng giới tính có bị coi là vi phạm pháp luật hay không?
Hiện nay tồn tại 02 quan điểm khác nhau về vấn đề này:
- Thứ nhất, ngoại tình với người cùng giới vẫn vi phạm pháp luật. Căn cứ Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác…”. Trong đó khái niệm “người khác” không giới hạn về giới tính. Do đó hành vi chung sống như vợ chồng với người cùng giới nếu thỏa mãn dấu hiệu của tội danh thì vẫn có thể bị xử lý hình sự.
- Thứ hai, ngoại tình với người cùng giới không vi phạm pháp luật. Theo khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”. Như vậy việc kết hôn với người cùng giới là không thể xảy ra. Đồng thời, việc chứng minh hành vi “chung sống như vợ chồng” giữa những người cùng giới cũng gặp nhiều khó khăn trên thực tế, dẫn đến khả năng áp dụng chế tài hình sự là rất hạn chế.
Hiện tại, pháp luật Việt Nam chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể để giải thích rõ vấn đề này, vì vậy cả 02 quan điểm trên đều tồn tại song song mà chưa có cơ sở khẳng định quan điểm nào tuyệt đối chính xác. Đây là một khoảng trống pháp lý cần được cơ quan lập pháp nghiên cứu, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Trong bối cảnh xã hội ngày càng phát triển như hiện nay thì việc bảo vệ quyền con người, quyền bình đẳng giới và quyền liên quan đến xu hướng tính dục càng trở nên quan trọng, đòi hỏi pháp luật phải theo kịp để vừa bảo đảm tính nghiêm minh vừa thể hiện tính nhân văn.
8. Bản án điển hình của Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:
- Tên bản án:
Bản án về tranh chấp ly hôn số 18/2021/HNGĐ-PT của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.
- Nội dung vụ án:
Năm 2013, Phạm Tiến M và Hoàng Thị Q đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 56/2013; Quyền số: 01/2013 ngày cấp 12/8/2013 do Uỷ ban nhân dân xã Hải Xuân, huyện Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh cấp và có 02 con chung. Mặc dù chưa ly hôn với Hoàng Thị Q nhưng ngày 04/7/2016, Phạm Tiến M sử dụng tên Phạm Công M, thường trú tại xã Thuận Lợi, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước đến Uỷ ban nhân dân xã Thuận Lợi, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước đăng ký kết hôn với Chìu Nhì Múi theo giấy chứng nhận kết hôn số 58 ngày 04/7/2016 do Uỷ ban nhân dân xã Thuận Lợi, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước cấp.
Quá trình sinh sống tại xã Thuận Lợi huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước, M và chị M có 03 con chung. Ngày 25/5/2023, Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước thụ lý đơn ly hôn của bà Hoàng Thị Q thì phát hiện vụ việc trên, ngày 31/8/2023 Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú chuyển tin báo về tội phạm về vụ việc trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đồng Phú thụ lý theo thẩm quyền. Quá trình điều tra Phạm Tiến M đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như trên.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tuyên bố bị cáo Phạm Tiến M (tên gọi khác: Phạm Công M) phạm tội “Vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng”.
+ Giao bị cáo Phạm Tiến M cho Uỷ ban nhân dân phường Tân Xuân, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước để giám sát và giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
THAM KHẢO THÊM: