Hiện nay, vẫn tồn tại tình trạng lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao, cho thuê, thu hồi hoặc chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, gây thất thoát lớn và ảnh hưởng trật tự xã hội. Vì vậy, Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai tại Điều 229 nhằm xử lý nghiêm minh và phòng ngừa hiệu quả tình trạng này.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:
- 5 5. Phân biệt với Tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:
1. Khái quát chung về Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:
1.1. Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là gì?
Trong những năm qua, tình trạng vi phạm quy định về quản lý đất đai diễn ra ở nhiều địa phương trên cả nước. Các hành vi thường gặp bao gồm: Giao đất, cho thuê đất và cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định; hoặc lợi dụng chức vụ và quyền hạn để hợp thức hóa sai phạm về đất đai; hoặc hành vi định giá đất thấp nhằm trục lợi; hoặc chiếm và chia đất công trái quy định của pháp luật…
Những vi phạm này không chỉ gây thất thoát lớn cho ngân sách Nhà nước, làm mất cân đối trong quy hoạch mà còn tạo ra “điểm nóng” khiếu kiện, tranh chấp kéo dài và ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội. Thực tiễn xét xử cho thấy nhiều vụ án đất đai có quy mô lớn, liên quan đến cán bộ quản lý và làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với cơ quan nhà nước.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai như sau:
“Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai có thể được hiểu là hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện trái pháp luật các hoạt động quản lý đất đai như giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng hoặc chuyển mục đích sử dụng đất, gây ra hậu quả nghiêm trọng về kinh tế – xã hội. Đây là tội phạm gắn liền với trách nhiệm công vụ, thể hiện sự xâm hại trực tiếp đến trật tự quản lý đất đai – một lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.”
1.2. Ý nghĩa của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong pháp luật hình sự:
Việc quy định tội danh này trong Bộ luật Hình sự mang nhiều ý nghĩa:
- Thứ nhất, bảo vệ trật tự quản lý đất đai: Bảo đảm các hoạt động quản lý và sử dụng đất được thực hiện đúng quy định pháp luật, phù hợp với quy hoạch và lợi ích chung.
- Thứ hai, phòng ngừa tham nhũng, lạm quyền: Tạo cơ sở pháp lý để xử lý nghiêm minh những cán bộ, cá nhân lợi dụng chức vụ và quyền hạn trong lĩnh vực đất đai nhằm trục lợi hoặc gây thiệt hại cho Nhà nước.
- Thứ ba, giữ vững ổn định xã hội: Khi đất đai được quản lý minh bạch, công bằng thì sẽ hạn chế tình trạng khiếu kiện hoặc tranh chấp kéo dài, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào pháp luật và Nhà nước.
- Thứ tư, khẳng định giá trị tài nguyên đất: Đất đai là nguồn lực đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, do đó việc bảo vệ quỹ đất quốc gia thông qua công cụ hình sự là hết sức cần thiết.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:
Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai hiện nay đang được quy định tại Điều 229 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2);
b) Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;
c) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Đất trồng lúa có diện tích từ 30.000 mét vuông (m2) đến dưới 70.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 50.000 mét vuông (m2) đến dưới 100.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 40.000 mét vuông (m2) đến dưới 80.000 mét vuông (m2);
c) Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 2.000.000.000 đồng đến dưới 7.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 5.000.000.000 đồng đến dưới 15.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;
d) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Đất trồng lúa có diện tích 70.000 mét vuông (m2) trở lên; đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích 100.000 mét vuông (m2) trở lên; đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích 80.000 mét vuông (m2) trở lên;
b) Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền 7.000.000.000 đồng trở lên đối với đất nông nghiệp hoặc 15.000.000.000 đồng trở lên đối với đất phi nông nghiệp.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:
2.1. Khách thể:
Khách thể của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ liên quan đến quản lý đất đai.
Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai xâm phạm trực tiếp đến: Trật tự quản lý đất đai của Nhà nước và quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân.
Trong đó, quản lý đất đai là hoạt động của Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, thực hiện quyền quản lý thống nhất đối với toàn bộ diện tích đất trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Nội dung quản lý đất đai bao gồm:
- Ban hành chính sách và pháp luật;
- Lập và tổ chức thực hiện quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất;
- Giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất;
- Cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;
- Đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong lĩnh vực đất đai.
2.2. Mặt khách quan:
Người phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai có hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định về quản lý đất đai (trái với quy định của pháp luật đất đai và các văn bản hướng dẫn có liên quan). Hành vi khách quan của tội này là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý đất đai, thể hiện dưới các dạng:
- Giao đất đai trái pháp luật như giao đất trái thẩm quyền;
- Thu hồi đất đai trái luật như thu hồi đất đã giao cho người dân thuê nhưng khi chưa hết thời hạn thuê đã thu hồi mà không tuân thủ quy định của Luật Đất đai 2024;
- Cho thuê đất trái pháp luật như cho người dân thuê đất sử dụng trái mục đích;
- Cho phép chuyển quyền sử dụng đất trái pháp luật;
- Cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật.
Lưu ý: Người phạm tội có thể thực hiện một hành vi hoặc nhiều hành vi trong các hành vi kể trên.
- Các hành vi nói trên chỉ bị coi là tội phạm nếu kèm theo một trong các dấu hiệu sau:
- Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2);
- Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;
- Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.
Hậu quả:
- Gây thất thoát tài sản Nhà nước, làm thiệt hại lớn về kinh tế cho các cá nhân, tổ chức có liên quan;
- Gây suy thoái tài nguyên đất, làm thay đổi cảnh quan tự nhiên, và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường;
- Gây mất ổn định trật tự xã hội, dẫn đến tranh chấp đất đai, khiếu kiện kéo dài và làm suy giảm niềm tin của người dân vào hệ thống quản lý đất đai.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015.
Đồng thời, chủ thể của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai còn đòi hỏi dấu hiệu đặc biệt: Phải là người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến việc quản lí đất đai.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý.
Động cơ và mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai.
3. Khung hình phạt của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:
Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai theo Điều 229 Bộ luật Hình sự 2015 quy định khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 229 Bộ luật Hình sự 2015.
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 229 Bộ luật Hình sự 2015:
- Có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 229 Bộ luật Hình sự 2015:
Tình tiết này thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn của hành vi phạm tội. Đây là trường hợp nhiều người cùng tham gia, có sự cấu kết chặt chẽ và phân công vai trò cụ thể nhằm thực hiện các hành vi: giao đất, thu hồi, cho thuê hoặc chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật. Hành vi phạm tội có tổ chức thường dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng hơn vì có sự chuẩn bị và che giấu tinh vi, từ đó gây ra nhiều khó khăn cho công tác phát hiện xử lý. Do vậy tình tiết này sẽ bị xử lý ở khung hình phạt tăng nặng của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai.
- Đất trồng lúa có diện tích từ 30.000 mét vuông (m2) đến dưới 70.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 50.000 mét vuông (m2) đến dưới 100.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 40.000 mét vuông (m2) đến dưới 80.000 mét vuông (m2) theo điểm b khoản 2 Điều 229 Bộ luật Hình sự 2015:
Diện tích đất bị vi phạm càng lớn thì hậu quả đối với xã hội, kinh tế và môi trường càng nặng nề. Đặc biệt, đất trồng lúa và đất rừng là loại tài nguyên quan trọng, gắn với an ninh lương thực, bảo vệ hệ sinh thái và ứng phó biến đổi khí hậu. Việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để giao, thu hồi, cho thuê hoặc chuyển mục đích sử dụng đất với diện tích lớn không chỉ gây thiệt hại về kinh tế mà còn ảnh hưởng lâu dài đến phát triển bền vững. Do đó, hành vi này được xác định là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai.
- Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 2.000.000.000 đồng đến dưới 7.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 5.000.000.000 đồng đến dưới 15.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp theo điểm c khoản 2 Điều 229 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp hành vi vi phạm gây thiệt hại về giá trị quyền sử dụng đất ở mức cao cho thấy mức độ nguy hiểm đặc biệt của tội phạm. Giá trị thiệt hại càng lớn thì hậu quả kinh tế – xã hội càng nghiêm trọng, tác động trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Do vậy, mức độ thiệt hại về giá trị quyền sử dụng đất được xem là tiêu chí quan trọng để phân hóa trách nhiệm hình sự và nâng cao hình phạt nhằm bảo đảm tính răn đe trong xã hội.
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội theo điểm d khoản 2 Điều 229 Bộ luật Hình sự 2015:
Tình tiết này phản ánh hậu quả vượt ra ngoài phạm vi kinh tế – tài sản, tác động đến sự ổn định chính trị và an ninh quốc gia. Thực tiễn cho thấy, những hành vi vi phạm nghiêm trọng trong quản lý đất đai có thể gây ra khiếu kiện và tranh chấp kéo dài, tạo điểm nóng xã hội và ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với cơ quan nhà nước. Do vậy, Bộ luật Hình sự 2015 coi đây là một trong những tình tiết tăng nặng của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, áp dụng khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù để xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 229 Bộ luật Hình sự 2015:
- Đất trồng lúa có diện tích 70.000 mét vuông (m2) trở lên; đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích 100.000 mét vuông (m2) trở lên; đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích 80.000 mét vuông (m2) trở lên theo điểm a khoản 3 Điều 229 Bộ luật Hình sự 2015:
Đây là tình tiết định khung cao nhất về diện tích đất bị vi phạm và phản ánh mức độ nguy hiểm đặc biệt nghiêm trọng. Việc giao, cho thuê, chuyển mục đích sử dụng hoặc thu hồi đất với diện tích đặc biệt lớn sẽ để lại hậu quả nặng nề, khó khắc phục cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Pháp luật quy định khung hình phạt từ 05 năm đến 12 năm tù đối với tình tiết này nhằm thể hiện thái độ xử lý nghiêm khắc nhằm bảo vệ quỹ đất quốc gia.
- Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền 7.000.000.000 đồng trở lên đối với đất nông nghiệp hoặc 15.000.000.000 đồng trở lên đối với đất phi nông nghiệp theo điểm b khoản 3 Điều 229 Bộ luật Hình sự 2015:
Tình tiết này đánh giá hậu quả kinh tế ở mức đặc biệt nghiêm trọng. Khi thiệt hại về giá trị quyền sử dụng đất đạt đến mức đặc biệt lớn, hành vi phạm tội không chỉ xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân mà còn đe dọa đến sự ổn định của thị trường bất động sản và kỷ cương quản lý đất đai. Vì vậy tình tiết này sẽ bị áp dụng khung hình phạt tăng nặng, cụ thể là từ 05 năm đến 12 năm tù nhằm xử lý triệt để, bảo đảm tính răn đe và phòng ngừa chung.
5. Phân biệt với Tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất:
Tiêu chí | Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Điều 229 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (Điều 230 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể bị xâm phạm | Trật tự quản lý Nhà nước về đất đai, đặc biệt trong hoạt động giao đất, thu hồi, cho thuê hoặc chuyển mục đích sử dụng đất. | Trật tự quản lý Nhà nước trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. |
Chủ thể | Người có chức vụ và quyền hạn trong quản lý đất đai. | Người có chức vụ, quyền hạn tham gia công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. |
Hành vi khách quan | Lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật. | Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm quy định về bồi thường đất, tài sản, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, tái định cư. |
Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc | Phân hóa theo diện tích đất vi phạm hoặc giá trị quyền sử dụng đất (từ 500 triệu đồng trở lên) hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà tái phạm. | Gây thiệt hại từ 100 triệu đồng trở lên hoặc dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật mà tái phạm. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 12 năm. Khung 3: Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |
Tính chất lỗi | Chủ yếu do lạm dụng quyền hạn, trái pháp luật trong quản lý và sử dụng đất. | Chủ yếu do vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân, thực hiện sai quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư. |
6. Bản án điển hình của Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:
- Tên bản án:
Bản án số 223/2023/HS-ST ngày 29/9/2023 tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.
- Nội dung vụ án:
Tháng 6/2018, UBND huyện T đã có tờ trình trình Ủy ban nhân dân thành phố H phê duyệt Kế hoạch sử dụng đất năm 2018. Ngày 29/6/2018, UBND thành phố đã phê duyệt Kế hoạch sử dụng đất năm 2018 của Ủy ban nhân dân huyện T, trong tháng 12 năm 2018, Ủy ban nhân dân huyện T quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất ở của 13 thửa đất cho 27 hộ dân tại xã T với tổng diện tích là 5.748,7m2.
Trong đó: Cho phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất ở của 08 thửa đất cho 18 hộ dân trong đó có 05 thửa đất với tổng diện tích là 1.807,5m2 cho 09 hộ dân tại xã T nằm ngoài Kế hoạch sử dụng đất năm 2018. Việc UBND huyện T cho phép chuyển mục đích sử dụng đất nằm ngoài kế hoạch sử dụng đất đã được cấp trên phê duyệt là trái quy định.
Việc cho phép chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở trái quy định của pháp luật được thực hiện bởi các cá nhân Vũ Đình T- Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường, Đào Văn B – Phó Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường và Bùi Doãn N – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T là những người có quyền hạn, chức trách nhiệm vụ trong việc quản lý đất đai tại huyện T.
Tại Kết luận định giá tài sản số 38/KL-HĐĐGTS ngày 08/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hải Phòng xác định: Giá trị quyền sử dụng đất đối với 09 thửa đất nông nghiệp được Ủy ban nhân dân huyện T cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang đất ở là: 3.278.587.500 đồng, Giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích vượt hạn mức 09 thửa đất của 10 hộ cho phép chuyển mục đích sử dụng đất (tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) là: 1.100.492.000 đồng. Tổng giá trị quyền sử dụng đất cho phép chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở trái các quy định của pháp luật là 4.379.079.500 đồng.
- Quyết định của Tòa án:
Hành vi của các bị cáo Bùi Doãn N, Đảo Văn B và Vũ Đình T thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai quy định tại điểm b khoản 1 Điều 229 Bộ luật Hình sự 2015.
+ Bị cáo Bùi Doãn N 24 tháng cải tạo không giam giữ về tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai.
+ Bị cáo Đào Văn B 18 tháng cải tạo không giam giữ về tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai.
+ Bị cáo Vũ Đình T 15 tháng cải tạo không giam giữ về tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai.
THAM KHẢO THÊM: