Bầu cử và trưng cầu ý dân là cách thức thể hiện ý chí nhân dân, quyết định tính chính danh của bộ máy nhà nước. Mọi hành vi gian lận, bóp méo kết quả đều xâm hại nghiêm trọng quyền dân chủ. Vì vậy, Điều 161 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định cụ thể về Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân nhằm bảo đảm tính minh bạch và công bằng.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 161 Bộ luật Hình sự:
- 5 5. Phân biệt với Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
- 6 6. Biện pháp đảm bảo kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân trên thực tế:
1. Khái quát về Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân:
1.1. Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân là gì?
Kết quả bầu cử là sự tổng hợp ý chí và nguyện vọng của các cử tri được thể hiện thông qua lá phiếu trong một cuộc bầu cử (như bầu đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp hay bầu các chức danh khác theo quy định của pháp luật). Kết quả này phản ánh số phiếu hợp lệ, tỷ lệ ủng hộ, danh sách ứng cử viên trúng cử và là cơ sở pháp lý xác định người được bầu vào cơ quan quyền lực Nhà nước. Hay nói cách khác, kết quả bầu cử chính là thành quả cuối cùng của việc thực hiện quyền bầu cử của công dân, mang tính quyết định đối với sự hình thành bộ máy Nhà nước và các cơ quan dân cử.
Trưng cầu ý dân là hình thức dân chủ trực tiếp, theo đó toàn thể cử tri bỏ phiếu quyết định về một vấn đề quan trọng của đất nước. Kết quả trưng cầu ý dân chính là ý chí chung của toàn thể nhân dân được biểu quyết qua phiếu bầu, nó thể hiện quan điểm chính thức của cử tri và có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý đối với Nhà nước. Do tính chất đặc biệt, kết quả trưng cầu ý dân là sự thể hiện tập trung nhất quyền làm chủ của nhân dân, cần được bảo đảm tuyệt đối khách quan và minh bạch.
Trong thực tế tại Việt Nam, do công tác bầu cử và trưng cầu ý dân được tổ chức chặt chẽ nên các vụ án hình sự về tội danh này ít được phát hiện và xử lý. Tuy nhiên trong thực tiễn chính trị quốc tế, tình trạng gian lận bầu cử, làm sai lệch kết quả bầu cử vẫn diễn ra ở nhiều quốc gia, thể hiện qua: việc mua phiếu, làm giả phiếu, tác động vào hệ thống kiểm phiếu hay lợi dụng chức vụ để che giấu sai phạm. Ở nước ta, các hành vi vi phạm quy định về bầu cử thường bị xử lý ở mức vi phạm hành chính hoặc kỷ luật; song việc quy định tội danh trong Bộ luật Hình sự là cần thiết để răn đe, phòng ngừa và đảm bảo tính nghiêm minh, sẵn sàng xử lý trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.
Quá trình thực hiện quyền bầu cử, quyền biểu quyết của công dân phải chỉ thực sự đem lại hiệu quả khi mang tới một kết quả đúng đắn, khách quan và phù hợp với quy định của pháp luật. Thực tế cho thấy có nhiều nguyên nhân khác nhau khiến cho các chủ thể đã cố ý làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng của hoạt động bầu cử và trưng cầu ý dân.
Vì thế có thể đưa ra khái niệm về Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân như sau:
“Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có trách nhiệm trong việc tổ chức hoặc giám sát bầu cử, trưng cầu ý dân thực hiện bằng cách giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu hoặc dùng thủ đoạn khác nhằm thay đổi, bóp méo kết quả thực tế.”
1.2. Ý nghĩa của Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân trong pháp luật hình sự:
- Thứ nhất, bảo vệ quyền chính trị cơ bản của công dân: Mỗi công dân đều có quyền bầu cử và trưng cầu ý dân, vì vậy việc ngăn chặn hành vi làm sai lệch kết quả là bảo vệ trực tiếp quyền dân chủ.
- Thứ hai, bảo đảm tính hợp pháp và minh bạch của các thiết chế dân chủ: Kết quả bầu cử và trưng cầu ý dân là nền tảng để hình thành cơ quan quyền lực nhà nước, do đó phải tuyệt đối chính xác và trung thực.
- Thứ ba, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước: Khi người dân tin tưởng rằng lá phiếu của mình có giá trị, không bị bóp méo, niềm tin chính trị và sự đồng thuận xã hội sẽ được củng cố.
- Thứ tư, khẳng định nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Quy định tội danh này thể hiện quan điểm của pháp luật Việt Nam về việc xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm hại nền dân chủ, giữ vững trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực bầu cử và trưng cầu ý dân.
Như vậy, kết quả bầu cử và kết quả trưng cầu ý dân không chỉ là con số thống kê, mà còn là sự phản ánh ý chí nhân dân. Tội làm sai lệch các kết quả này mang ý nghĩa đặc biệt nguy hiểm bởi nó trực tiếp làm tổn hại đến nền dân chủ và niềm tin chính trị. Do đó tội danh này được pháp luật hình sự quy định cụ thể và xử lý nghiêm minh.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân:
Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân hiện nay đang được quy định tại Điều 161 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:
“1. Người nào có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử, tổ chức trưng cầu ý dân mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dẫn đến phải tổ chức lại việc bầu cử hoặc trưng cầu ý dân.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân:
2.1. Khách thể:
Khách thể của tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân là vấn đề khá phức tạp và có nhiều ý kiến khác nhau:
- Nếu xem xét dưới góc độ là khách thể loại: Tội này xâm phạm đến quyền tự do dân chủ của công dân.
- Nếu xem xét dưới góc độ là khách thể trực tiếp: Tội phạm này vẫn còn nhiều vấn đề để bàn luận:
Trước đây, Tại điều 122 Bộ luật Hình sự năm 1985, hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử được quy định chung trong cùng một Điều luật với tên gọi là Xâm phạm quyền bầu cử của công dân thì khách thể tội làm sai lệch kết quả bầu cử, trưng cầu dân ý là: Quyền bầu cử, biểu quyết của công dân.
Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã tách tội phạm này thành một tội độc lập, do đó việc xem xét khách thể có phải là quyền bầu cử nữa hay không cũng cần được xem xét. Hiện nay có ý kiến cho rằng, khách thể của Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu dân ý không phải là quyền bầu cử hoặc biểu quyết của công dân nữa, vì 02 quyền này công dân đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử, trưng cầu dân ý là hành vi xâm phạm đến trật tự quản lý của cơ quan tổ chức bầu cử và theo ý kiến này, thì Tội làm sai lệch kết quả bầu cử phải được quy định ở Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính mới hợp lý.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử gây ra, chúng ta thấy khách thể của Tội làm sai lệch kết quả bầu cử cũng chính là quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân, bởi lẽ suy cho cùng thì hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử đã gián tiếp xâm phạm đến quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân
Vấn đề xác định khách thể của tội làm sai lệch kết quả bầu cử, trưng cầu dân ý về tương đối chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận và có ý nghĩa trực tiếp đối với việc cơ cấu Bộ luật Hình sự điều đó không làm thay đổi đặc điểm của tội phạm cũng như các dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội phạm này.
Đối tượng tác động của tội phạm này là: Kết quả bầu cử và kết quả trưng cầu ý dân. Kết quả này có thể được thể hiện hoặc ghi nhận trong một biên bản, một báo cáo, một danh sách hoặc được lưu trong máy tính…
Kết luận: Hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử bằng những thủ đoạn khác nhau làm cho kết quả cuối cùng của cuộc bầu cử không phản ánh đúng với thực tế khách quan. Vì thế Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân xâm phạm trực tiếp đến quyền bầu cử, ứng cử của công dân.
2.2. Mặt khách quan:
Mặt khách quan của tội phạm này được thể hiện qua các hành vi như:
Thứ nhất, hành vi giả mạo giấy tờ:
Đây là hành vi làm phiếu bầu cử, phiếu trưng cầu ý dân giả hoặc dùng phiếu bầu cử, phiếu trưng cầu ý dân đã bị sửa chữa kết quả bầu cử trên các phiếu bầu, thêm hoặc bớt phiếu bầu cử với mục đích làm sai lệch kết quả bầu cử theo ý mình.
Thứ hai, hành vi gian lận phiếu:
Hành vi dối trá trong việc thêm, bớt phiếu bầu, dẫn đến kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân không chính xác như: Thay đổi số phiếu đã bầu cử như bớt của người này, tăng cho người kia, đưa phiếu giả vào…
Thứ ba, hành vi dùng thủ đoạn khác:
Có thể được thực hiện thông qua các thủ đoạn: Thay thùng phiếu thật bằng thùng phiếu giả; lấy cắp biên bản kiểm phiếu, thay bằng biên bản kiểm phiếu khác theo ý đồ của người phạm tội. Mua chuộc, dụ dỗ, cưỡng ép… người có trách nhiệm trong việc tổ chức giám sát việc bầu cử để những người này thực hiện hành vi giả mạo giấy tờ hoặc gian lận phiếu bầu để làm sai lệch kết quả bầu cử.
Thứ tư, là hành vi phạm tội có tổ chức:
Hành vi của nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch kế hoạch để thực hiện hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu. Đây là trường hợp phạm tội có đồng phạm.
Thứ năm, hành vi phạm tội dẫn đến phải tổ chức lại việc bầu cử hoặc trưng cầu ý dân:
Đây là trường hợp hành vi phạm tội của người phạm tội đã làm cho tình hình phức tạp nên ngày bầu cử không diễn ra đúng kế hoạch; kết quả bầu cử không minh bạch, không chọn được những người có đủ phẩm chất và năng lực; nhân dân không tin tưởng vào kết quả bầu cử nên phải bầu cử lại lần hai dẫn đến sự tốn kém và ảnh hưởng đến vấn đề chính trị.
Lưu ý:
- Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm của Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân;
- Chỉ cần người phạm tội đã có hành vi giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử là tội phạm đã hoàn thành.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, trưng cầu dân ý thực hiện do lỗi cố ý (trực tiếp), tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu dân ý là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy
Người phạm tội làm sai lệch kết quả bầu cử có nhiều động cơ khác nhau; động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này nên việc xác định động cơ phạm tội chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.
Mục đích của người phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân. Việc thực hiện các thủ đoạn với mục đích là làm sai lệch kết quả bầu cử, trưng cầu dân ý.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu dân ý cũng phải đảm bảo các yếu tố cần và đủ như: Độ tuổi (từ đủ 16 tuổi trở lên) và có năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 12 và Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015.
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ người có chức vụ, quyền hạn nhất định trong việc tổ chức và giám sát việc bầu cử mới có thể là chủ thể của tội phạm này.
Ví dụ: Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng bầu cử; Trưởng ban, Phó trưởng ban giám sát bầu cử; ủy viên Ủy ban bầu cử; nhân viên giúp việc trong ban bầu cử, tổ bầu cử…
Nói chung, những người được giao nhiệm vụ trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử và do có trách nhiệm này nên mới có điều kiện thuận lợi để làm sai lệch được kết quả bầu cử.
3. Khung hình phạt của Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân:
Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân theo Điều 161 Bộ luật Hình sự năm 2015 có những khung hình phạt sau đây:
- Khung 1: Người nào có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử, tổ chức trưng cầu ý dân mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 03 năm khi:
- Có tổ chức;
- Dẫn đến phải tổ chức lại việc bầu cử hoặc trưng cầu ý dân.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Như vậy, hình phạt cao nhất mà người phạm tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu dân ý có thể bị áp dụng là 03 năm tù, là loại tội phạm ít nghiêm trong.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 161 Bộ luật Hình sự:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân được quy định tại khoản 2 Điều 161 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cụ thể như sau:
a) Có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 161 Bộ luật Hình sự năm 2015:
Là trường hợp có sự câu kết chặt chẽ giữa nhiều người cùng thực hiện hành vi phạm tội, có phân công vai trò, nhiệm vụ rõ ràng, thường xuyên hoặc lâu dài. Trong tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân, việc phạm tội có tổ chức thể hiện qua hành vi của một nhóm người, thường là cán bộ có trách nhiệm trong ban bầu cử hoặc ban giám sát, cùng bàn bạc và thống nhất cách thức gian lận phiếu, làm giả tài liệu hoặc che giấu sai phạm. Đây là tình tiết làm tăng nặng trách nhiệm hình sự vì tính chất nguy hiểm cao hơn, từ đó gây ảnh hưởng trực tiếp đến tính minh bạch, công bằng của cuộc bầu cử hoặc trưng cầu ý dân, thậm chí làm mất niềm tin của cử tri đối với cơ quan tổ chức bầu cử.
b) Dẫn đến phải tổ chức lại việc bầu cử hoặc trưng cầu ý dân theo điểm b khoản 2 Điều 161 Bộ luật Hình sự năm 2015:
Tình tiết này áp dụng khi hành vi gian lận, giả mạo, hoặc thủ đoạn sai lệch kết quả bầu cử, trưng cầu ý dân có hậu quả đặc biệt nghiêm trọng: Buộc cơ quan có thẩm quyền phải hủy bỏ kết quả và tổ chức lại toàn bộ cuộc bầu cử hoặc trưng cầu ý dân. Hậu quả này không chỉ gây thiệt hại về tài chính, nhân lực, thời gian mà còn làm suy giảm uy tín của cơ quan Nhà nước; từ đó tác động tiêu cực đến quyền chính trị của công dân. Chính vì vậy, hành vi này được coi là nguy hiểm hơn nhiều so với các trường hợp khác, và người phạm tội phải chịu mức hình phạt nặng hơn nhằm bảo đảm tính răn đe và bảo vệ sự trong sạch, công bằng của quy trình bầu cử và trưng cầu ý dân.
Như vậy, 02 tình tiết định khung hình phạt tăng nặng ở khoản 2 Điều 161 Bộ luật Hình sự năm 2015 chủ yếu tập trung vào tính chất tổ chức và mức độ hậu quả nghiêm trọng của hành vi. Cả 02 tình tiết này đều phản ánh sự gia tăng tính nguy hiểm cho xã hội so với trường hợp thông thường của Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân.
5. Phân biệt với Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
Tiêu chí | Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (Điều 160 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân (Điều 161 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể bị xâm phạm | Quyền hiến định của công dân trong việc bầu cử, ứng cử, biểu quyết – quyền chính trị cơ bản được Nhà nước bảo đảm. | Tính khách quan, trung thực của kết quả bầu cử, trưng cầu ý dân – bảo đảm phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân. |
Chủ thể | Bất kỳ người nào (công dân) đủ năng lực trách nhiệm hình sự. | Chỉ người có trách nhiệm tổ chức, giám sát bầu cử, trưng cầu ý dân (chủ thể đặc biệt). |
Hành vi khách quan | Lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác để cản trở công dân thực hiện quyền bầu cử, ứng cử, biểu quyết. | Giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu hoặc thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử, trưng cầu ý dân. |
Mức độ nguy hiểm cho xã hội | Ảnh hưởng đến việc công dân thực hiện quyền chính trị nhưng chưa trực tiếp thay đổi kết quả bầu cử. | Trực tiếp bóp méo, thay đổi kết quả – hậu quả nghiêm trọng hơn, tác động tới tính hợp pháp của cơ quan dân cử, chính sách quốc gia. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 02 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
6. Biện pháp đảm bảo kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân trên thực tế:
6.1. Biện pháp pháp lý:
Một trong những biện pháp quan trọng để bảo đảm kết quả bầu cử và trưng cầu ý dân là xây dựng hành lang pháp lý đầy đủ, chặt chẽ. Hiến pháp năm 2013 cùng với Luật Trưng cầu ý dân năm 2015 đã quy định rõ nguyên tắc, trình tự và thủ tục tiến hành; đồng thời khẳng định quyền bầu cử, ứng cử và biểu quyết của công dân là quyền chính trị cơ bản.
Bên cạnh đó, các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 và các văn bản xử phạt hành chính tạo cơ chế răn đe, sẵn sàng xử lý nghiêm minh đối với những hành vi gian lận và làm sai lệch kết quả. Đây chính là cơ sở pháp lý để bảo đảm rằng kết quả cuối cùng của bầu cử hay trưng cầu ý dân phản ánh đúng ý chí của nhân dân.
6.2. Biện pháp giám sát:
Song song với việc tổ chức bầu cử, các biện pháp giám sát cũng đóng vai trò thiết yếu nhằm bảo đảm kết quả khách quan. Người dân có quyền tham gia giám sát, khiếu nại hoặc tố cáo nếu phát hiện hành vi vi phạm trong suốt quá trình bầu cử. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các tổ chức chính trị – xã hội cũng tham gia vào công tác giám sát, góp phần nâng cao tính độc lập và công bằng.
Ngoài ra, báo chí và truyền thông đại chúng còn là kênh thông tin quan trọng giúp công khai, minh bạch hóa diễn biến bầu cử; từ đó tạo điều kiện để dư luận xã hội giám sát. Trong một số trường hợp đặc biệt, còn có sự tham gia của quan sát viên trong và ngoài nước, từ đó tạo thêm một tầng kiểm soát đáng tin cậy.
6.3. Biện pháp công nghệ và kỹ thuật:
Trong bối cảnh chuyển đổi số, công nghệ thông tin đã trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc bảo đảm kết quả bầu cử và trưng cầu ý dân. Việc ứng dụng công nghệ cho phép công khai thông tin về danh sách cử tri, ứng cử viên và quy trình bầu cử trên các cổng thông tin điện tử, giúp cử tri tiếp cận nhanh chóng và chính xác. Hệ thống quản lý dữ liệu cử tri tập trung, đồng bộ góp phần loại bỏ tình trạng trùng lặp, sai sót.
Bên cạnh đó, công tác bảo mật và giám sát an ninh mạng cũng được chú trọng nhằm ngăn chặn nguy cơ tấn công, can thiệp trái phép vào hệ thống bầu cử, nhất là trong bối cảnh nhiều quốc gia trên thế giới đã từng đối mặt với thách thức này.
6.4. Biện pháp nâng cao ý thức chính trị và pháp luật của công dân
Một yếu tố then chốt để bảo đảm tính trung thực của kết quả bầu cử và trưng cầu ý dân chính là ý thức chính trị và pháp luật của công dân. Thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, cử tri hiểu rõ hơn quyền và trách nhiệm của mình. Từ đó chủ động tham gia giám sát và tố cáo hành vi vi phạm.
Khi công dân nhận thức được giá trị thực chất của lá phiếu, họ sẽ có thái độ kiên quyết bảo vệ quyền dân chủ và không để bị mua chuộc hay cưỡng ép. Trên cơ sở đó việc xây dựng một văn hóa chính trị minh bạch và một xã hội coi trọng pháp luật là biện pháp lâu dài và bền vững để bảo đảm kết quả bầu cử phản ánh đúng ý chí chung của toàn dân.
THAM KHẢO THÊM: