Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, pháp luật cho phép người thi hành công vụ được sử dụng vũ lực trong những trường hợp cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, khi việc sử dụng vũ lực vượt quá giới hạn cho phép thì hành vi đó không được coi là hợp pháp mà bị xử lý hình sự theo Điều 127 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ:
- 4 4. Tình tiết tăng nặng của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ:
- 5 5. Phân biệt Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ với Tội giết người:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ:
1. Khái quát chung về Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ:
1.1. Khái niệm Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ:
Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ hiện nay đang được quy định tại Điều 127 Bộ luật Hình sự năm 2015. Về bản chất, đây là hành vi của người đang được giao thực hiện công vụ hợp pháp nhưng trong quá trình thi hành nhiệm vụ đã dùng vũ lực vượt quá giới hạn pháp luật cho phép, dẫn đến hậu quả tước đoạt tính mạng của người khác.
Khái niệm của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ chủ yếu tập trung phản ánh hai yếu tố cơ bản:
- Hành vi phạm tội gắn liền với quá trình thực hiện công vụ. Tức là người phạm tội đang thực hiện nhiệm vụ được Nhà nước, cơ quan, tổ chức giao phó. Nếu không phải trong bối cảnh thi hành công vụ thì hành vi làm chết người có thể cấu thành các tội danh khác (ví dụ: tội giết người theo Điều 123 hoặc tội vô ý làm chết người theo Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015);
- Sự vi phạm xuất phát từ việc lạm quyền trong sử dụng vũ lực. Pháp luật cho phép sử dụng vũ lực để cưỡng chế, ngăn chặn hành vi vi phạm, bảo vệ lợi ích công cộng nhưng phải nằm trong phạm vi cần thiết và hợp lý. Khi vượt quá giới hạn này gây ra hậu quả chết người thì hành vi không còn được coi là hợp pháp mà trở thành tội phạm.
Như vậy, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ vừa thể hiện tính đặc thù của một tội danh liên quan đến hoạt động công vụ vừa mang bản chất của một hành vi xâm phạm quyền sống, quyền hiến định cơ bản nhất của con người theo Điều 19 Hiến pháp năm 2013.
1.2. Ý nghĩa của việc quy định Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ:
Việc quy định Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ trong Bộ luật Hình sự có nhiều ý nghĩa quan trọng về phương diện pháp lý, xã hội và chính trị:
a. Bảo đảm quyền sống của công dân:
Điều 19 Hiến pháp 2013 quy định: Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật. Quyền sống là quyền tối cao và không thể bị tước đoạt trái luật. Khi Nhà nước trao quyền sử dụng vũ lực cho người thi hành công vụ thì đồng thời cũng đặt ra cơ chế kiểm soát chặt chẽ để tránh sự lạm dụng. Điều 127 Bộ luật Hình sự 2015 là công cụ pháp lý nhằm bảo vệ tuyệt đối quyền sống, ngăn ngừa những trường hợp sinh mạng công dân bị tước đoạt trái pháp luật dưới danh nghĩa công vụ.
b. Khẳng định nguyên tắc thượng tôn pháp luật trong hoạt động công vụ:
Hoạt động công vụ phải luôn tuân thủ pháp luật và hướng đến lợi ích chung. Nếu người thi hành công vụ vượt quá thẩm quyền và dùng bạo lực ngoài phạm vi cho phép, hành vi đó không chỉ làm sai lệch mục đích công vụ mà còn xâm hại trực tiếp đến tính nghiêm minh của pháp luật. Việc quy định tội danh này thể hiện thông điệp rõ ràng: Bất kì chủ thể nào (kể cả người thi hành công vụ) cũng không có quyền đứng trên pháp luật.
c. Tăng cường niềm tin của nhân dân đối với cơ quan công quyền:
Trong thực tiễn, nếu những trường hợp gây chết người khi thi hành công vụ nếu không được xử lý công bằng và minh bạch sẽ làm giảm sút lòng tin của người dân vào Nhà nước. Điều 127 Bộ luật HÌnh sự 2015 giúp khẳng định rằng mọi hành vi vi phạm của các chủ thể (kể cả của người thực thi công vụ) đều bị xử lý theo pháp luật, từ đó củng cố niềm tin của nhân dân vào hệ thống tư pháp và bộ máy công quyền.
d. Phòng ngừa và răn đe lạm quyền trong thi hành công vụ:
Quy định tội danh này có ý nghĩa răn đe mạnh mẽ đối với những người có thẩm quyền sử dụng vũ lực. Họ phải luôn cân nhắc, tuân thủ đúng giới hạn pháp luật, bảo đảm tính cần thiết và tương xứng khi áp dụng biện pháp cưỡng chế. Điều này góp phần xây dựng nền hành chính – tư pháp văn minh và nhân đạo, gắn liền với nguyên tắc tôn trọng quyền con người.
e. Bảo đảm sự cân bằng giữa lợi ích công và quyền con người:
Trong nhiều tình huống, việc sử dụng vũ lực để duy trì an ninh trật tự là cần thiết. Tuy nhiên nếu không có giới hạn pháp lý, quyền con người có thể bị xâm phạm tùy tiện. Điều 127 Bộ luật HÌnh sự 2015 được đặt ra nhằm bảo đảm sự cân bằng này. Nhà nước cho phép sử dụng vũ lực trong công vụ nhưng đồng thời cũng trừng trị nghiêm khắc những trường hợp để xảy hậu quả chết người khi thi hành công vụ.
Tóm lại, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ là một quy định có ý nghĩa lớn, vừa nhằm bảo vệ quyền sống của công dân vừa nâng cao trách nhiệm, kỷ luật trong hoạt động công vụ, đồng thời khẳng định rõ ràng nguyên tắc mọi hành vi vượt quá giới hạn pháp luật, dù nhân danh công vụ, đều phải bị xử lý nghiêm minh.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ:
Hiện nay, Điều 127 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ như sau:
“1. Người nào trong khi thi hành công vụ mà làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ:
2.1. Khách thể:
Làm chết người trong khi thi hành công vụ là hành vi của người trong quá trình thực hiện công vụ của mình đã làm cho người khác bị chết do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép.
Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ Điều 127 Bộ luật Hình sự 2015 trực tiếp xâm phạm quyền sống của con người.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ là dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép trong khi thi hành công vụ và hành vi này phải liên quan trực tiếp đến công vụ mà người đó đang thực hiện.
“Dùng vũ lực” là việc dùng sức mạnh vật chất trực tiếp tác động vào thân thể người khác gây nên những hậu quả nhất định. Các hình thức dùng vũ lực như dùng vũ khí hoặc tay chân đấm, đá…
Hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Nạn nhân là người đang có hành vi xâm phạm đến lợi ích mà người phạm tội có nhiệm vụ bảo vệ.
Trên thực tế, hành vi dùng vũ lực trong trong cấu thành tội phạm của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ thường kèm theo việc sử dụng các loại vũ khí. Pháp luật cho phép người thi hành công vụ được sử dụng vũ lực trong một số trường hợp nhất định.
Lưu ý: Trong trường hợp đang thi hành công vụ nhưng có thái độ coi thường tính mạng của người khác, sử dụng vũ khí vô nguyên tắc làm chết người thì dù là người đang thi hành công vụ vẫn phạm Tội giết người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015.
Người đang thực hiện công vụ có hành vi làm chết người nhưng nạn nhân không liên quan trực tiếp đến công vụ của họ thì không phạm Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ theo Điều 127 Bộ luật Hình sự 2015 mà có thể bị kết án về Tội giết người.
2.3. Chủ thể:
Là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi theo luật quy định (đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015).
Họ là những người đang thi hành công vụ nói chung, có chức vụ quyền hạn trong cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao.
Ngoài ra, những công dân được huy động làm nhiệm vụ như: Tuần tra, canh gác, bảo vệ theo kế hoạch của các cơ quan có thẩm quyền hoặc công dân, vì lợi ích chung của xã hội mà đã sử dụng một loại công cụ nào đó để giúp sức người thi hành công vụ ngăn chặn hoặc đuổi bắt người phạm tội, do đó xâm phạm tính mạng của người khác thì cũng được coi là người thi hành công vụ.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý (có thể cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp).
Động cơ phạm tội là hành động vì lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
3. Khung hình phạt của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ:
Điều 127 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ với khung hình phạt như sau:
Khung 1: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Khung 2: Quy định hình phạt tù từ 08 năm đến 15 năm trong trường hợp làm chết 02 người trở lên; đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai.
Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Nhìn chung, những khung hình phạt này thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, vừa đảm bảo xử lý nghiêm đối với hành vi lạm dụng quyền hạn vừa răn đe, giáo dục ý thức trách nhiệm của những người được giao nhiệm vụ thi hành công vụ.
4. Tình tiết tăng nặng của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ:
Điều 127 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội làm chết người trong khi thi hành công vụ. Đây là tội phạm đặc thù, chủ thể thường là người có chức vụ quyền hạn hoặc đang được Nhà nước/tổ chức giao nhiệm vụ. Đặc biệt, khoản 2 Điều 127 xác định 02 tình tiết định khung tăng nặng làm cho hành vi trở nên nguy hiểm hơn, từ đó nâng mức hình phạt lên khung 08 năm đến 15 năm tù. Cụ thể:
a. Làm chết 02 người trở lên:
Tình tiết định khung tăng nặng này được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 127 Bộ luật Hình sự 2015.
Đây là tình tiết thể hiện hậu quả đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Nếu trong khi thi hành công vụ mà người phạm tội dùng vũ lực ngoài phạm vi pháp luật cho phép dẫn đến cái chết của từ 02 nạn nhân trở lên thì mức độ xâm hại không chỉ dừng ở một cá nhân mà lan rộng đến nhiều người.
Trường hợp này cho thấy hành vi không những vi phạm nguyên tắc pháp luật trong hoạt động công vụ mà còn gây ra hậu quả nghiêm trọng về nhân mạng, ảnh hưởng lớn đến trật tự xã hội và niềm tin của nhân dân đối với cơ quan công quyền.
Hậu quả chết người càng nhiều thì tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội càng cao. Vì thế pháp luật quy định mức hình phạt nặng hơn nhằm bảo đảm tính răn đe và phòng ngừa chung.
b. Làm chết người dưới 16 tuổi hoặc phụ nữ mà biết là có thai:
Tình tiết định khung tăng nặng này được quy định tại điểm b Điều 127 Bộ luật Hình sự 2015.
Đây là tình tiết phản ánh sự xâm hại đến những đối tượng yếu thế, đặc biệt được pháp luật bảo vệ.
Người dưới 16 tuổi là nhóm chưa phát triển đầy đủ về thể chất tinh thần, không có khả năng tự vệ và nhận thức như người trưởng thành. Do đó, khi bị tước đoạt tính mạng bởi hành vi vượt quá giới hạn trong thi hành công vụ thì mức độ nguy hiểm được xem là cao hơn.
Đồng thời, phụ nữ có thai là đối tượng đặc biệt được pháp luật bảo vệ vì hành vi xâm hại không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân mà còn đến thai nhi – sự sống đang hình thành. Việc người phạm tội biết rõ nạn nhân đang mang thai nhưng vẫn dùng vũ lực dẫn đến cái chết thể hiện sự coi thường đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng và nhân phẩm con người.
Việc quy định tình tiết định khung tăng nặng này nhằm nhấn mạnh tính nhân đạo và chính sách bảo vệ đặc biệt của Nhà nước đối với trẻ em và phụ nữ có thai.
5. Phân biệt Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ với Tội giết người:
Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ với Tội giết người đều xâm phạm trực tiếp đến quyền sống của con người, nhưng có sự khác biệt cơ bản về dấu hiệu pháp lý, chủ thể và mức hình phạt. Cụ thể:
Tiêu chí | Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127 Bộ luật Hình sư 2015) | Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sư 2015) |
Khách thể | Quyền sống của con người và sự đúng đắn trong hoạt động thi hành công vụ của Nhà nước. | Quyền sống của con người. |
Chủ thể | Người đang thi hành công vụ (cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang hoặc người được trao quyền). | Bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. |
Hành vi khách quan | Dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép khi thi hành công vụ, dẫn đến chết người. | Có hành vi cố ý tước đoạt tính mạng người khác bằng bất kỳ phương thức nào. |
Lỗi | Thường là cố ý gián tiếp (nhận thức được có thể gây chết người nhưng vẫn thực hiện). | Có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, nhưng thường là trực tiếp. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Khung 2: Phạt tù từ 08 năm đến 15 năm. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm | Khung 1: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Khung 2: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm. |
Tính chất nguy hiểm | Hành vi mang tính lạm dụng quyền hạn làm ảnh hưởng đến niềm tin vào pháp luật. | Hành vi xâm phạm trực tiếp quyền sống thể hiện ý chí tước đoạt mạng sống người khác. |
Điểm khác biệt quan trọng là ở mục đích và bối cảnh thực hiện hành vi: Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ xuất phát từ việc thi hành nhiệm vụ nhưng vượt quá giới hạn, còn tội giết người thể hiện ý chí trực tiếp tước đoạt mạng sống của người khác.
6. Bản án điển hình của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ:
- Tên bản án:
Bản án 98/2024/HS-PT ngày 02/05/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
- Nội dung bản án:
Vào lúc 18 giờ 30 phút ngày 28-8-2023 tiếp nhận tin báo về việc ông Đ say rượu gây mất an ninh, trật tự và xúc phạm danh dự người khác, Công an xã T B đến mời ông Đ về đến trụ sở Công an xã T làm việc.
Trong lúc làm việc, ông Đ lớn tiếng chửi H và đứng lên đi về, H nắm tay ông Đ giữ lại, ông Đ quay lại đánh vào ngực H, H giằng co quật ngã ông Đ xuống nền gạch để khống chế còng tay lại, ông Đ kháng cự và tiếp tục đánh lại H, nghe tiếng động Q1 từ phòng làm việc bước qua thấy ông Đảm đ chửi và đánh H.
Thấy Q1, H kêu Q1 vào khống chế còng tay ngăn chặn hành vi của ông Đ. Khi nghe H kêu, Q1 vào nắm giữ tay trái ông Đ không cho đánh H để H còng tay phải ông Đ vào chân bàn.
Sau khi còng được tay ông Đ vào chân bàn, H đứng lên dùng chân phải đá liên tiếp 02 cái vào lưng và hông phải ông Đ làm gãy xương sườn số 4,5,6,7,8,9,10 đâm vào phổi và vỡ gan dẫn đến ông Đ tử vong.
Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi, là Phó trưởng công an xã T. Xuất phát từ việc bị ông Đ chửi và đánh bị cáo nên bị cáo không kiềm chế được bản thân, đã dùng chân phải đá liên tiếp 02 cái vào lưng, hông bị hại dẫn đến ông Đ tử vong.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo H về tội “Làm chết người trong khi thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 127 Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.
- Quyết định của Tòa án:
Tuyên bố bị cáo Hồ Thanh H phạm tội “Làm chết người trong khi thi hành công vụ”.
Xử phạt bị cáo Hồ Thanh H 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án phạt tù nhưng được trừ đi thời gian bắt tạm giam bị cáo từ ngày 30/8/2023 đến ngày 13/10/2023.
THAM KHẢO THÊM: