Tội cướp giật tài sản theo quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự 2015 là một trong những tội phạm về xâm phạm sở hữu phổ biến, diễn ra công khai, liều lĩnh và để lại nhiều hệ lụy cho xã hội. Hành vi này không chỉ trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân, tổ chức mà còn tiềm ẩn nguy cơ gây thương tích. Vì vậy cần trừng trị nghiêm khắc.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội cướp giật tài sản:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội cướp giật tài sản:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội cướp giật tài sản:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội cướp giật tài sản:
- 5 5. Phân biệt Tội cướp giật tài sản và Tội cướp tài sản:
- 6 6. Trường hợp nào Tội cướp giật tài sản chuyển hoá thành Tội cướp tài sản?
- 7 7. Bản án điển hình của Tội cướp giật tài sản:
1. Khái quát chung về Tội cướp giật tài sản:
1.1. Tội cướp giật tài sản được hiểu như thế nào?
Cướp giật tài sản là một trong những loại tội phạm về xâm phạm sở hữu diễn ra phổ biến nhất trong thực tiễn. Hành vi này thường xuất hiện ở nơi công cộng như: Đường phố, bến xe, chợ, khu dân cư đông người… với thủ đoạn nhanh chóng, liều lĩnh và gây bất ngờ cho người bị hại. Nhiều đối tượng lợi dụng sơ hở của người dân khi mang theo điện thoại, túi xách, trang sức để ra tay giật tài sản rồi nhanh chóng tẩu thoát.
Không ít vụ việc còn kết hợp sử dụng phương tiện như xe máy, ô tô để gây án… khiến việc truy đuổi khó khăn và nguy hiểm hơn. Thực tế cho thấy, cướp giật tài sản không chỉ gây thiệt hại về tài sản mà còn tiềm ẩn nguy cơ cao ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người bị hại nếu trong quá trình giằng co, từ đó có thể khiến nạn nhân bị ngã hoặc va chạm tai nạn giao thông.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội cướp giật tài sản như sau:
“Tội cướp giật tài sản là hành vi công khai, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn giật lấy tài sản rồi nhanh chóng tẩu thoát, khiến người bị hại không kịp trở tay. Đặc trưng của hành vi này là sự liều lĩnh, bất ngờ, thực hiện công khai giữa nơi đông người nhằm chiếm đoạt tài sản trong thời gian ngắn nhất. Đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản, quyền cơ bản được pháp luật bảo vệ, đồng thời xâm hại đến trật tự an toàn công cộng.”
1.2. Ý nghĩa của Tội cướp giật tài sản trong pháp luật hình sự:
- Thứ nhất, bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của công dân: Việc quy định và xử lý nghiêm minh Tội cướp giật tài sản góp phần bảo đảm tài sản của cá nhân, tổ chức không bị xâm hại trái pháp luật.
- Thứ hai, duy trì trật tự an toàn xã hội: Cướp giật tài sản thường gây hoang mang cho người dân, nhất là ở khu vực đô thị và nơi công cộng. Việc xử lý tội phạm này giúp giữ vững an ninh trật tự và bảo vệ sự an toàn trong sinh hoạt cộng đồng.
- Thứ ba, răn đe và phòng ngừa tội phạm: Khung hình phạt của tội cướp giật tài sản được thiết kế nghiêm khắc, từ đó thể hiện thái độ kiên quyết của pháp luật nhằm ngăn chặn và phòng ngừa hành vi nguy hiểm này.
- Thứ tư, nâng cao ý thức cảnh giác của người dân: Bên cạnh việc xử lý người phạm tội, quy định pháp luật còn có ý nghĩa giáo dục xã hội, nhắc nhở mỗi cá nhân cần cẩn trọng trong bảo vệ tài sản của mình, từ đó góp phần hạn chế điều kiện để tội phạm cướp giật tài sản phát sinh.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội cướp giật tài sản:
Tội cướp giật tài sản hiện nay đang được quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:
“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
c) Làm chết người;
d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội cướp giật tài sản:
2.1. Khách thể:
Tội cướp giật tài sản xâm phạm trực tiếp đến khách thể là: Quan hệ sở hữu tài sản.
Đối tượng tác động của Tội cướp giật tài sản mà người phạm tội mong muốn nhắm vào là những tài sản nhỏ, gọn, dễ mang đi do tính chất của hành vi phạm tội là nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thoát.
2.2. Mặt khách quan:
Có thể hiểu mặt khách quan của Tội cướp giật tài sản chính là hành vi công khai chiếm đoạt tài sản một cách nhanh chóng. Cụ thể:
- Hành vi chiếm đoạt được biểu hiện bằng hành động giật tài sản, như hành vi: Giật lấy, giằng lấy, đoạt lấy tài sản không thuộc về mình và đây chính là bản chất, đặc trưng cơ bản của Tội cướp giật tài sản. Tội cướp giật tài sản có cấu thành vật chất nên dù người phạm tội chiếm đoạt được tài sản có giá trị lớn hay nhỏ thì vẫn phạm vào Tội cướp giật tài sản;
- Dấu hiệu công khai: Là người phạm tội cướp giật tài sản không có ý định che giấu hành vi phạm tội của mình với người khác;
- Dấu hiệu nhanh chóng: Người phạm tội tạo ra sự bất ngờ hoặc lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu, người quản lý tài sản hay chủ động tạo ra sơ hở làm cho họ không có khả năng ứng phó, giữ được tài sản để nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát.
Tội cướp giật tài sản được pháp luật quy định là tội có cấu thành vật chất và tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã giật được tài sản từ chủ sở hữu.
Trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi giật tài sản nhưng chưa lấy được tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản thì được coi là phạm tội chưa đạt.
2.3. Chủ thể:
Tội cướp giật tài sản được áp dụng với người từ đủ 16 tuổi trở lên (Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015).
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi sẽ bị truy cứu về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Còn đối với người dưới 14 tuổi thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong mọi trường hợp.
2.4. Mặt chủ quan:
Mặt chủ quan của Tội cướp giật tài sản bao gồm các dấu hiệu về lỗi, động cơ và mục đích phạm tội, trong đó:
- Lỗi: Tội cướp giật tài sản là lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi cướp giật tài sản của mình, đồng thời thấy trước được hậu quả có thể xảy ra của hành vi và còn mong muốn cho hậu quả xảy ra;
- Động cơ: Là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách cố ý;
- Mục đích: Người phạm tội mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác và mục đích này thường có trước khi thực hiện hành vi phạm tội. Đây là dấu hiệu bắt buộc để xác định tội danh này.
3. Khung hình phạt của Tội cướp giật tài sản:
Tội cướp giật tài sản theo quy định Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 có những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm với các tình tiết định khung tăng nặng sau:
- Có tổ chức;
- Có tính chất chuyên nghiệp;
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
- Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
- Hành hung để tẩu thoát;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
- Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Tái phạm nguy hiểm.
- Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm với các tình tiết định khung tăng nặng sau:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
- Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
- Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân với các tình tiết định khung tăng nặng sau:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
- Làm chết người;
- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội cướp giật tài sản:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội cướp giật tài sản hiện nay được quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cụ thể như sau:
4.1. Tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
a) Có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi nhiều người câu kết chặt chẽ, phân công vai trò rõ ràng để thực hiện hành vi cướp giật, mức độ nguy hiểm tăng cao. Đây là hành vi có tính chất chuyên nghiệp, khó phòng ngừa, gây hậu quả lớn cho xã hội nên cần xử lý nghiêm khắc hơn so với hành vi cá nhân tự phát.
b) Có tính chất chuyên nghiệp theo điểm b khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp người phạm tội coi cướp giật là “nghề nghiệp”, thường xuyên thực hiện hành vi để kiếm sống, tái phạm nhiều lần thì được coi là có tính chất chuyên nghiệp. Điều này thể hiện ý thức coi thường pháp luật, khả năng cải tạo thấp, vì vậy mức hình phạt phải nặng hơn.
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng theo điểm c khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
Mức độ thiệt hại về tài sản tăng cao sẽ kéo theo trách nhiệm hình sự nặng hơn. Giá trị tài sản càng lớn, mức độ xâm phạm quyền sở hữu của người bị hại càng nghiêm trọng.
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm theo điểm d khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
Nếu người phạm tội sử dụng phương tiện, cách thức có khả năng gây nguy hiểm như điều khiển xe máy tốc độ cao, lạng lách, sử dụng hung khí… thì hành vi này tiềm ẩn nguy cơ gây thương tích, thậm chí chết người. Do đó, pháp luật coi đây là tình tiết tăng nặng của Tội cướp giật tài sản.
đ) Hành hung để tẩu thoát theo điểm đ khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi bị phát hiện hoặc bị truy đuổi, nếu đối tượng dùng vũ lực để thoát thân thì vẫn bị xem là cướp giật tài sản nhưng ở mức độ nguy hiểm cao hơn. Đây là sự kết hợp giữa hành vi chiếm đoạt và hành vi bạo lực, từ đó làm gia tăng nguy cơ thiệt hại về sức khỏe cho nạn nhân.
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% theo điểm e khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
Nếu trong quá trình cướp giật, nạn nhân bị kéo ngã, va chạm hoặc bị hành hung dẫn đến thương tích từ 11% đến 30% thì người phạm tội phải chịu khung hình phạt nặng hơn. Đây là sự kết hợp giữa xâm phạm tài sản và xâm phạm sức khỏe vì vậy cần áp dụng khung hình phạt nặng hơn.
g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ theo điểm g khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
Những đối tượng này thuộc nhóm dễ bị tổn thương, không có khả năng chống đỡ. Việc cướp giật trong trường hợp này thể hiện sự táo tợn, mất nhân tính và được xem là tình tiết tăng nặng đặc biệt của Tội cướp giật tài sản.
h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội theo điểm h khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
Nếu hành vi cướp giật gây hoang mang trong cộng đồng, làm mất an ninh trật tự nghiêm trọng tại địa phương (ví dụ: cướp giật liên tiếp tại khu dân cư, bến xe, khu du lịch…) thì bị xử lý nghiêm khắc hơn để bảo đảm ổn định xã hội.
i) Tái phạm nguy hiểm theo điểm i khoản 2 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
+ Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
+ Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
4.2. Tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng theo điểm a khoản 3 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi giá trị tài sản bị chiếm đoạt ở mức rất lớn, mức độ xâm phạm quyền sở hữu đặc biệt nghiêm trọng, gây hậu quả nặng nề cho người bị hại. Đây là căn cứ để nâng cao hình phạt.
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% theo điểm b khoản 3 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
Hành vi cướp giật mà dẫn đến thương tích nặng cho nạn nhân (tỷ lệ tổn thương 31% đến 60%) đã vượt ra khỏi phạm vi xâm phạm tài sản, xâm phạm nghiêm trọng đến sức khỏe, vì thế bắt buộc phải áp dụng khung hình phạt cao.
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh theo điểm c khoản 3 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
Việc lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của cộng đồng như thiên tai, dịch bệnh để thực hiện cướp giật thể hiện thái độ vô nhân đạo và lợi dụng tình thế nguy cấp. Đây là hành vi đáng lên án và phải chịu hình phạt nặng hơn.
4.3. Tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 4 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên theo điểm a khoản 4 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
Mức thiệt hại đặc biệt lớn không chỉ gây tổn thất nặng nề cho người bị hại mà còn ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Đây là một trong những tình tiết nghiêm trọng nhất của tội cướp giật.
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên theo điểm b khoản 4 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
Nếu gây thương tích cho một người với tỷ lệ 61% trở lên hoặc gây thương tích cho từ hai người trở lên với tỷ lệ mỗi người từ 31% trở lên thì hậu quả rất nghiêm trọng, thậm chí ảnh hưởng lâu dài đến cuộc sống nạn nhân. Do đó, hình phạt được nâng lên mức cao nhất đối với Tội cướp giật tài sản.
c) Làm chết người theo điểm c khoản 4 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
Hành vi cướp giật dẫn đến hậu quả chết người cho thấy mức độ đặc biệt nguy hiểm, không chỉ xâm phạm quyền sở hữu mà còn tước đoạt quyền sống – quyền cơ bản nhất của con người. Đây là tình tiết tăng nặng cao nhất của Tội cướp giật tài sản.
d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp theo điểm d khoản 4 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015:
Việc lợi dụng bối cảnh đất nước trong tình trạng chiến tranh, khủng hoảng để thực hiện hành vi phạm tội là cực kỳ nghiêm trọng. Đối tượng đã lợi dụng sự hỗn loạn để phạm tội, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia và đời sống xã hội, vì vậy phải chịu mức hình phạt rất cao.
5. Phân biệt Tội cướp giật tài sản và Tội cướp tài sản:
Tiêu chí | Tội cướp tài sản (Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015) | Tội cướp giật tài sản (Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015) |
Hành vi | Tội cướp tài sản được thực hiện thông qua những hành vi sau:
| Tội cướp giật tài sản được thực hiện thông qua những hành vi sau:
Ví dụ: Giật túi xách, điện thoại của người đi đường rồi bỏ chạy… |
Khách thể bị xâm phạm | Tội cướp tài sản xâm phạm trực tiếp đến:
| Tội cướp giật tài sản xâm phạm trực tiếp đến: Quyền sở hữu đối với tài sản. |
Hình phạt | Khung hình phạt nặng hơn, người chuẩn bị phạm tội cũng có thể bị xử lý hình sự. Cụ thể Điều 168 Bộ luật Hình sự2015 quy định:
| Khung hình phạt nhẹ hơn, không có quy định với người chuẩn bị phạm tội. Điều 171 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:
|
Chuẩn bị phạm tội | Người chuẩn bị phạm tội này thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. | Không xử lý |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. |
6. Trường hợp nào Tội cướp giật tài sản chuyển hoá thành Tội cướp tài sản?
Tham khảo tinh thần tại Mục VII của Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày 19/04/1989:
Thực tiễn xét xử cho thấy các Tòa án đã định tội không thống nhất đối với các trường hợp kẻ phạm các tội chiếm đoạt tài sản (như cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp hoặc lừa đảo) đã dùng bạo lực để chiếm đoạt cho bằng được tài sản định chiếm đoạt hoặc để tẩu thoát. Nhiều Tòa án đã coi mọi trường hợp nói trên là cướp tài sản. Ngược lại có Tòa án chỉ coi việc dùng bạo lực là tình tiết tăng nặng của việc chiếm đoạt chứ không kết án kẻ phạm tội về Tội cướp tài sản.
- Nếu là trường hợp do chưa chiếm đoạt được tài sản mà kẻ phạm tội dùng vũ lực hay đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực để chiếm đoạt tài sản cho bằng được thì cần định tội là cướp tài sản…;
- Nếu là trường hợp kẻ phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản rồi, nhưng chủ tài sản họăc người khác đã lấy lại được tài sản đó hoặc đang giành giật tài sản còn ở trong tay kẻ phạm tội, mà kẻ phạm tội dùng vũ lực, hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực để chiếm đoạt tài sản cho bằng được, thì cần định tội là cướp tài sản…
Trong một số trường hợp, hành vi phạm Tội cướp giật tài sản có thể chuyển hóa thành Tội cướp tài sản. Việc phân biệt phụ thuộc vào mục đích và cách thức mà người phạm tội sử dụng khi thực hiện hành vi:
- Trường hợp người phạm tội sau khi giật được tài sản đã có hành vi hành hung chỉ nhằm mục đích tẩu thoát, tức là dùng vũ lực để cản trở việc truy đuổi, bảo đảm cho việc chạy trốn, thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp giật tài sản. Đây là tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự 2015: “Hành hung để tẩu thoát”.
- Ngược lại, nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt nhưng bị nạn nhân hoặc người khác giành lại mà vẫn tiếp tục dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc với mục đích chiếm đoạt bằng được tài sản, thì hành vi này đã đủ dấu hiệu cấu thành Tội cướp tài sản theo Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015.
Như vậy, ranh giới chuyển hóa giữa 02 tội danh nằm ở mục đích sử dụng vũ lực. Nếu chỉ để chạy thoát thì vẫn là cướp giật nhưng nếu dùng vũ lực để chiếm đoạt hoặc giữ bằng được tài sản thì hành vi đã trở thành Tội cướp tài sản với mức độ nguy hiểm cao hơn và chế tài nghiêm khắc hơn.
7. Bản án điển hình của Tội cướp giật tài sản:
- Tên bản án:
Bản án về Tội cướp giật tài sản số 01/2024/HS-ST của Tòa án nhân dân quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
- Nội dung vụ án:
Đỗ Thành Đ, Đào Trọng T, Phạm Minh T1 và Hoàng Đại P có mối quan hệ bạn bè xã hội, thường xuyên tập trung đi chơi cùng nhau. Vào khoảng 13 giờ ngày 18/6/2023, Đ mượn P xe mô tô Biển kiểm soát 15F1-X.15 để đi mua đồ ăn, P đồng ý. Đ điều khiển xe mô tô đến nhà T ở thôn L, xã T, huyện K, thành phố Hải Phòng chơi. Tại nhà T, Đ cùng T tháo Biển kiểm soát của xe mô tô 15F1-X.15, cất vào cốp xe, T điều khiển xe chở Đ đến đón T1 đi chơi ở khu vực quận Đ.
Trên đường đi, Đ nảy sinh ý định rủ T, T1 cướp giật tài sản của những người đi đường để bán lấy tiền chi tiêu, T, T1 đều đồng ý. Đ nói T1 thực hiện hành vi cướp giật tài sản. Đ đưa áo tránh nắng của Đ nói T1 mặc, mục đích che đi hình xăm trên cánh tay của T1 để khi cướp giật tài sản người khác không nhận dạng được. T thấy thế nói: “tay T1 ngắn không cướp được” nên Đ tự mặc áo tránh nắng để trực tiếp thực hiện hành vi cướp giật tài sản.
Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 18 tháng 6 năm 2023, tại đường 353, tổ dân phố Q, phường H, quận Đ, thành phố Hải Phòng, Đỗ Thành Đ, Đào Trọng T, Phạm Minh T1 có hành vi điều khiển xe mô tô BKS 15F1-X.15 cướp giật 02 điện thoại di động trị giá 4.500.000đ (bốn triệu năm trăm nghìn đồng) của chị Nguyễn Thị H.
Vào ngày 19 giờ cùng ngày, tại khu vực sân vận động xã T, huyện K, thành phố Hải Phòng, Hoàng Đại P không hứa hẹn trước nhưng vẫn mua điện thoại Iphone XR dù đã biết rõ điện thoại này do Đ, T, T1 cướp giật mà có. Vì vậy, hành vi của các bị cáo Đ, T, T1 đã có đủ các yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Quyết định của Tòa án:
+ Đỗ Thành Đ 18 (mười tám) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/6/2023.
+ Đào Trọng T 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/6/2023.
+ Phạm Minh T1 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội “Cướp giật tài sản”. Thời gian thử thách 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
THAM KHẢO THÊM: