Tội cưỡng dâm được quy định tại Điều 143 Bộ luật Hình sự năm 2015 nhằm xử lý hành vi lợi dụng sự lệ thuộc hoặc tình trạng quẫn bách để buộc người khác phải miễn cưỡng thực hiện hành vi tình dục. Đây là một trong những tội phạm xâm phạm quyền tự do tình dục, danh dự và nhân phẩm con người và cần được xử lý nghiêm minh.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội cưỡng dâm theo Điều 143 Bộ luật Hình sự 2015:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội cưỡng dâm theo Điều 143:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội cưỡng dâm:
- 4 4. Tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội cưỡng dâm:
- 5 5. Phân biệt Tội cưỡng dâm và Tội hiếp dâm theo Bộ luật Hình sự:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội cưỡng dâm:
1. Khái quát về Tội cưỡng dâm theo Điều 143 Bộ luật Hình sự 2015:
1.1. Tội cưỡng dâm được hiểu như thế nào?
Tội cưỡng dâm là một trong những hành vi phạm tội tình dục nguy hiểm, thể hiện ở việc người phạm tội sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau lợi dụng sự lệ thuộc hoặc tình trạng quẫn bách của nạn nhân để buộc nạn nhân miễn cưỡng giao cấu hay thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Hành vi này trực tiếp xâm phạm quyền tự do tình dục, danh dự và sự toàn vẹn thân thể của người bị hại.
Không chỉ dừng lại ở sự xâm hại thể chất, hành vi cưỡng dâm còn để lại những hậu quả nặng nề về tinh thần, làm suy giảm sự tự tin, gây tổn thương sâu sắc về tâm lý và có thể hủy hoại các mối quan hệ xã hội của nạn nhân.
Với tính chất đặc biệt nguy hiểm, tội cưỡng dâm được pháp luật hình sự Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác coi là một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phải xử lý nghiêm minh nhằm bảo vệ quyền con người và an toàn trật tự xã hội, phòng ngừa tái diễn những hành vi xâm hại tình dục.
Vì thế có thể nói, cưỡng dâm là hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
Khái niệm về tội cưỡng dâm như sau:
“Tội cưỡng dâm được hiểu là hành vi của một người dùng thủ đoạn, lợi dụng sự lệ thuộc hoặc tình trạng quẫn bách của nạn nhân để buộc họ phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Cưỡng dâm khác với hiếp dâm ở chỗ không nhất thiết có bạo lực hoặc đe dọa dùng bạo lực mà thay vào đó là sự lệ thuộc, ép buộc tinh vi khiến nạn nhân buộc phải chấp nhận hành vi tình dục trái ý muốn.”
1.2. Ý nghĩa của việc quy định Tội cưỡng dâm trong pháp luật hình sự:
- Bảo vệ quyền tự do tình dục và nhân phẩm của con người:
Cưỡng dâm xâm phạm trực tiếp quyền được quyết định về đời sống tình dục của cá nhân. Việc quy định tội danh này nhằm khẳng định rằng quyền tự do tình dục là bất khả xâm phạm dưới bất kì hình thức nào.
- Phân biệt ranh giới pháp lý giữa các tội xâm hại tình dục:
Việc tách biệt cưỡng dâm với Tội hiếp dâm và Tội dâm ô giúp hệ thống pháp luật hình sự có công cụ xử lý phù hợp với từng dạng hành vi, phản ánh chính xác tính chất và mức độ nguy hiểm. Điều này tạo cơ sở cho Tòa án áp dụng hình phạt công bằng, đúng người và đúng tội.
- Đảm bảo sự công bằng trong quan hệ xã hội:
Người bị lệ thuộc ở trong tình trạng quẫn bách thường dễ bị lợi dụng. Quy định về tội cưỡng dâm không chỉ bảo vệ họ mà còn góp phần duy trì chuẩn mực đạo đức, ngăn chặn việc lợi dụng quyền lực, quan hệ công tác, quan hệ gia đình hay sự phụ thuộc kinh tế để ép buộc tình dục.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội cưỡng dâm:
Tội cưỡng dâm hiện nay đang được quy định tại Điều 143 Bộ luật hình sự 2015:
“1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Nhiều người cưỡng dâm một người;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Có tính chất loạn luân;
đ) Làm nạn nhân có thai;
e) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 18 năm:
a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội cưỡng dâm theo Điều 143:
2.1. Khách thể:
Điều 20 Hiến pháp 2013 quy định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
Tội cưỡng dâm xâm phạm trực tiếp đến nhân phẩm, danh dự của nạn nhân, ngoài ra còn có thể xâm phạm đến sức khỏe và thậm chí là tính mạng của nạn nhân (trường hợp nạn nhân chết hoặc tự sát).
2.2. Mặt khách quan:
Tội cưỡng dâm theo Điều 143 Bộ luật Hình sự 2015 là hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Như vậy hành vi của tội phạm này gồm 02 loại:
- Giao cấu với người đang bị lệ thuộc hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách:
- Thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người đang bị lệ thuộc hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách.
Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP có hướng dẫn chi tiết về hành vi của tội danh này như sau:
Thứ nhất, giao cấu là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào (khoản 1 Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP).
Thứ hai, hhành vi quan hệ tình dục khác là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây (khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP):
- Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác;
- Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.
Lưu ý về hoàn cảnh của nạn nhân trong quá trình định tội như sau:
Khoản 10 Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP giải thích rõ: Người lệ thuộc là trường hợp người bị hại bị lệ thuộc vào người phạm tội về vật chất (ví dụ: người bị hại được người phạm tội nuôi dưỡng, chu cấp chi phí sinh hoạt hàng ngày…) hoặc lệ thuộc về tinh thần, công việc, giáo dục, tín ngưỡng (ví dụ: người bị hại là người lao động làm thuê cho người phạm tội; người bị hại là học sinh trong lớp do người phạm tội là giáo viên chủ nhiệm hoặc giáo viên bộ môn…).
Khoản 11 Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP: Người đang ở trong tình trạng quẫn bách là trường hợp người bị hại đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn, bức bách nhưng không tự mình khắc phục được mà cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của người khác (ví dụ: không có tiền chữa bệnh hiểm nghèo; không có tiền để chuộc con mình đang bị bắt cóc…).
Người bị hại vẫn còn khả năng kháng cự tuy nhiên họ đã không kháng cự. Họ tự nguyện cho giao cấu một cách miễn cưỡng theo điều kiện mà người phạm tội đã đưa ra. Tội cưỡng dâm hoàn thành từ lúc người bị hại giao cấu với người phạm tội.
Đồng thời, người bị hại phải là:
- Người từ đủ 16 tuổi trở lên và đang ở trong tình trạng quẫn bách hoặc lệ thuộc người phạm tội. Quy định này nhằm thể hiện người bị hại đã có khả năng suy nghĩ độc lập;
- Trường hợp nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và đang ở trong tình trạng quẫn bách hoặc lệ thuộc người phạm tội sẽ cấu thành Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi tại Điều 144 Bộ luật hình sự năm 2015;
- Trường hợp nạn nhân là người dưới 13 tuổi sẽ cấu thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tại Điều 142 Bộ luật hình sự năm 2015.
2.3. Chủ thể:
Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015, người phạm Tội cưỡng dâm có thể là bất cứ ai (công dân Việt Nam, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch) và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự (năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi theo Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015).
Về độ tuổi phạm tội được xác định như sau:
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 143 Bộ luật Hình sự 2015;
- Trường hợp vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 143 Bộ luật Hình sự 2015 thì sẽ bị truy cứu hình sự nếu từ đủ 16 tuổi trở lên.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội phạm cưỡng dâm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (Khoản 1 Điều 10 Bộ luật Hình sự 2015).
3. Khung hình phạt của Tội cưỡng dâm:
Tội cưỡng dâm theo Điều 143 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
- Nhiều người cưỡng dâm một người;
- Phạm tội 02 lần trở lên;
- Đối với 02 người trở lên;
- Có tính chất loạn luân;
- Làm nạn nhân có thai;
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
- Tái phạm nguy hiểm.
Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 18 năm:
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
- Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
- Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Khung 4: Cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 143 Bộ luật Hình sự 2015 thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.
Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội cưỡng dâm:
Tình tiết định khung tăng nặng của Tội cưỡng dâm được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 143 Bộ luật hình sự 2015. Cụ thể như sau:
4.1. Tình tiết định khung hình phạt tăng nặng tại khoản 2 Điều 143 Bộ luật hình sự 2015:
- Nhiều người cưỡng dâm một người (điểm a khoản 2 Điều 143 Bộ luật hình sự 2015):
Đây là tình tiết phản ánh mức độ đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Khi nhiều người cùng cưỡng ép một nạn nhân thực hiện hành vi tình dục, nạn nhân rơi vào trạng thái bị áp đảo hoàn toàn cả về thể chất lẫn tinh thần.
Hành vi này không chỉ gây tổn thương trực tiếp đến sức khỏe, tâm lý nạn nhân mà còn tạo ra tác động xã hội xấu, thể hiện sự coi thường pháp luật và chuẩn mực đạo đức nghiêm trọng. Do đó, pháp luật quy định mức hình phạt cao hơn nhằm bảo vệ tối đa danh dự và nhân phẩm của con người.
- Phạm tội 02 lần trở lên (điểm b khoản 2 Điều 143 Bộ luật hình sự 2015):
Việc lặp lại hành vi cưỡng dâm ít nhất 02 lần cho thấy ý thức coi thường pháp luật và nhân phẩm người khác của người phạm tội. Tính chất tái diễn cho thấy hành vi không còn là sự bộc phát nhất thời mà có sự cố ý kéo dài, tạo nguy cơ lớn cho xã hội. Điều này phản ánh nhân thân xấu của người phạm tội, đồng thời gia tăng mức độ nguy hiểm vì hậu quả đối với nhiều nạn nhân có thể trầm trọng và lâu dài.
- Đối với 02 người trở lên (điểm c khoản 2 Điều 143 Bộ luật hình sự 2015):
Tình tiết này áp dụng khi người phạm tội có hành vi cưỡng dâm từ 02 nạn nhân trở lên. Việc mở rộng phạm vi tác động tới nhiều người làm gia tăng tính chất nguy hiểm bởi nó xâm hại cùng lúc nhiều cá nhân, gây hậu quả nặng nề cho nạn nhân và bất ổn cho xã hội. Đồng thời, điều này cho thấy người phạm tội có ý thức cố ý phạm tội nhiều lần với mức độ liều lĩnh và coi thường quyền tự do tình dục của người khác.
- Có tính chất loạn luân (điểm d khoản 2 Điều 143 Bộ luật hình sự 2015):
Loạn luân là hành vi của một người giao cấu với người mà biết rõ người đó cùng dòng máu về trực hệ, là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Trong đó, những người cùng dòng máu về trực hệ là những người có quan hệ huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau.
Cưỡng dâm mang tính chất loạn luân có mức độ nguy hiểm cao hơn vì ngoài xâm hại tình dục, hành vi còn phá vỡ nền tảng đạo đức, làm rạn nứt mối quan hệ gia đình, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển tâm lý của nạn nhân và đời sống xã hội.
- Làm nạn nhân có thai (điểm đ khoản 2 Điều 143 Bộ luật hình sự 2015):
Hậu quả nạn nhân mang thai là tình tiết tăng nặng đặc biệt bởi nó kéo theo gánh nặng về sức khỏe, tinh thần, danh dự và tương lai của nạn nhân. Trong trường hợp nạn nhân còn nhỏ tuổi hoặc chưa có sự chuẩn bị về thể chất và tâm lý thì hậu quả càng nghiêm trọng hơn và có thể để lại hệ lụy lâu dài cho cuộc sống sau này. Đây là yếu tố thể hiện sự coi thường nhân phẩm phụ nữ và coi thường pháp luật, buộc pháp luật phải xử lý nghiêm khắc ở khung hình phạt nặng hơn.
- Gây thương tích, tổn hại sức khỏe hoặc rối loạn tâm thần, hành vi với tỷ lệ tổn thương 31% đến 60% (điểm e khoản 2 Điều 143 Bộ luật hình sự 2015):
Nạn nhân bị cưỡng dâm dẫn đến thương tích hoặc rối loạn tâm thần ở mức từ 31% đến 60% thì hành vi phạm tội không chỉ xâm phạm quyền tự do tình dục mà còn để lại hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe. Nạn nhân có thể mang theo di chứng suốt đời, ảnh hưởng đến học tập, lao động cũng như khả năng hòa nhập xã hội. Đây là tình tiết thể hiện mức độ tàn ác, buộc Tòa án áp dụng hình phạt ở khung nặng hơn.
- Tái phạm nguy hiểm (điểm g khoản 2 Điều 143 Bộ luật hình sự 2015):
Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
+ Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
+ Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
4.2. Tình tiết định khung hình phạt tăng nặng tại khoản 3 Điều 143 Bộ luật hình sự 2015:
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên (điểm a khoản 3 Điều 143 Bộ luật hình sự 2015):
Đây là tình tiết thuộc khung hình phạt nặng hơn (khoản 3 Điều 143 Bộ luật hình sự 2015). Mức độ tổn thương này được coi là đặc biệt nghiêm trọng, có thể khiến nạn nhân mất khả năng lao động, sinh hoạt bình thường hoặc phụ thuộc hoàn toàn vào người khác. Hậu quả này cho thấy tính chất tàn bạo của hành vi cưỡng dâm, đẩy hành vi đến mức đặc biệt nguy hiểm hơ so với trường hợp phạm tội thông thường.
- Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội (điểm b khoản 3 Điều 143 Bộ luật hình sự 2015):
Khi người phạm tội ý thức rõ tình trạng nhiễm HIV của bản thân nhưng vẫn cố tình cưỡng dâm, hành vi này có nguy cơ trực tiếp lây truyền căn bệnh hiểm nghèo cho nạn nhân. Đây là tình tiết đặc biệt nghiêm trọng vì không chỉ xâm hại quyền tự do tình dục mà còn đe dọa tính mạng nạn nhân, gây hậu quả nặng nề cho xã hội.
- Làm nạn nhân chết hoặc tự sát (điểm c khoản 3 Điều 143 Bộ luật hình sự 2015):
Đây là tình tiết định khung đặc biệt nghiêm trọng nhất. Hành vi cưỡng dâm dẫn đến hậu quả nạn nhân tử vong hoặc tự kết liễu đời mình vì quá đau khổ, gây ra tổn thất không thể khắc phục cho gia đình nạn nhân và xã hội. Điều này đẩy hành vi phạm tội lên mức cực kỳ nguy hiểm, khiến pháp luật phải quy định khung hình phạt rất nặng (10 đến 18 năm tù theo khoản 3 Điều 143 Bộ luật hình sự 2015).
5. Phân biệt Tội cưỡng dâm và Tội hiếp dâm theo Bộ luật Hình sự:
Tiêu chí | Tội hiếp dâm (Điều 141 Bộ luật hình sự 2015) | Tội cưỡng dâm (Điều 143 Bộ luật hình sự 2015) |
Quy định pháp luật | Hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. | Cưỡng dâm là hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. |
Hình phạt | Khung 1: Phạt tù từ 02 đến 07 năm. Khung 2: Phạt tù từ 07 đến 15 năm. Khung 3: Phạt tù từ 12 đến 20 năm. Khung 4: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm (phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi). Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Khung 1: Phạt tù từ 01 đến 05 năm Khung 2: Phạt tù từ 03 đến 10 năm, Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 18 năm. Khung 4: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm (phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi). Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Hành vi | Người phạm tội thực hiện một trong những hành vi:
Người phạm tội thực hiện hành vi nhằm giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. | Sử dụng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. |
Nạn nhân | Người từ đủ 16 tuổi trở lên. | Người từ đủ 16 tuổi trở lên và đang ở trong tình trạng quẫn bách hoặc lệ thuộc người phạm tội. |
Khách thể | Xâm phạm tới sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác được pháp luật bảo vệ. | |
Mặt chủ quan | Người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp). | |
Chủ thể | Người phạm tội có thể là bất cứ ai (công dân Việt Nam, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch), từ đủ 14 tuổi (trong trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) hoặc từ đủ 16 tuổi (trong trường hợp phạm tội thông thường) và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự (năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi). |
6. Bản án điển hình của Tội cưỡng dâm:
- Tên bản án:
Bản án số 83/2021/HSST ngày 23/04/2021 của Tòa án nhân dân quận Long Biên, Thành phố Hà Nội.
- Nội dung bản án:
Bị cáo T và chị T có quan hệ tình cảm với nhau từ tháng 11/2020. Trong thời gian này T và T quan hệ tình dục với nhau và T đã sử dụng điện thoại của mình chụp ảnh khoả thân của chị T. Sau đó, T muốn chấm dứt quan hệ tình cảm với T, không đồng ý tiếp tục quan hệ tình dục với T thì T liên tục gửi ảnh khoả thân của T qua zalo cho T và đe doạ nếu T không quan hệ tình dục với T thì T sẽ đăng ảnh khoả thân của T lên mạng xã hội và gửi cho bạn bè của T.
Khoảng 9h ngày 7/12/2020, T tiếp tục sử dụng zalo gửi tin nhắn đe doạ sẽ đăng ảnh khoả thân của T lên mạng xã hội để ép chị T quan hệ tình dục với T. Do lo sợ ảnh khoả thân của mình bị phát tán nên chị T đã đồng ý đến nhà nghỉ để quan hệ tình dục với T. Khoảng 10h45 ngày 7/12/2020 khi T đang quan hệ tình dục với chị T thì bị công an bắt quả tang và đưa về trụ sở để làm rõ.
Chị Nguyễn Thị T khai nhận: Do lo sợ T đăng ảnh khoả thân của chị lên mạng xã hội nên đã miễn cưỡng đồng ý quan hệ tình dục với T tại nhà nghỉ theo yêu cầu của T. Sau khi bị cưỡng dâm chị T không bị thương tích gì, tinh thần hiện đã ổn định. Chị T yêu cầu truy tố T trước pháp luật và không yêu cầu gì về dân sự.
Lời khai của Hoàng Tuyển T phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tuyên bị cáo Hoàng Tuyển T phạm tội “Cưỡng Dâm” .
+ Bị cáo Hoàng Tuyển T 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/12/2020.
THAM KHẢO THÊM: