Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015 là một trong những hành vi xâm phạm nghiêm trọng quyền sở hữu và quyền an toàn cá nhân của người khác. Do đó pháp luật quy định các hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe, phòng ngừa và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân và cộng đồng.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản:
- 4 4. Những tình tiết định khung tăng nặng của Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản:
- 5 5. Phân biệt Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và Tội bắt cóc con tin:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản:
1. Khái quát chung về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản:
1.1. Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là gì?
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “bắt cóc” là bắt người một cách đột ngột và đem giấu đi.
Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi trái pháp luật, trong đó người thực hiện bắt giữ, giam giữ hoặc chiếm đoạt tự do của một người khác nhằm ép buộc nạn nhân hoặc người thân của nạn nhân phải giao tài sản hoặc thực hiện một hành vi có lợi về mặt vật chất cho người phạm tội. Hành vi này đi ngược lại các quyền cơ bản của con người, đặc biệt là quyền được sống an toàn, quyền tự do cá nhân và quyền sở hữu tài sản. Mục đích chính của hành vi này là tước đoạt tài sản một cách cưỡng bức thông qua việc gây áp lực lên nạn nhân thay vì thực hiện các giao dịch tự nguyện hay hợp pháp.
Điều 169 Bộ luật HÌnh sự 2015 nhấn mạnh rằng hành vi này có thể xảy ra dưới nhiều hình thức, từ việc giữ người làm con tin trong thời gian ngắn để yêu cầu trả tiền hoặc tài sản đến việc sử dụng vũ lực, đe dọa hoặc các thủ đoạn nguy hiểm khác để buộc nạn nhân phải thực hiện yêu cầu của người phạm tội. Vì vậy, Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản không chỉ xâm phạm quyền sở hữu mà còn đe dọa trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng, tâm lý của nạn nhân, đồng thời tạo ra mối nguy hiểm cho trật tự và an toàn xã hội.
Về bản chất, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là một hình thức tội phạm kinh tế kết hợp với tội phạm xâm phạm thân thể, khi quyền sở hữu và quyền tự do cá nhân của người khác bị vi phạm để thu lợi vật chất. Pháp luật quy định các mức hình phạt tăng dần theo mức độ tổn thương của nạn nhân, số lượng người bị bắt cóc, giá trị tài sản chiếm đoạt và hậu quả xảy ra, vừa bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị hại vừa phòng ngừa rủi ro cho xã hội.
Vì vậy có thể đưa ra khái niệm:
“Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi bắt người khác đem giấu ở một địa điểm nào đó để làm con tin nhằm uy hiếp buộc người muốn chuộc con tin (có thể là người thân trong gia đình, bạn bè của người bị bắt…) phải giao tiền hoặc tài sản khác thì mới thả người bị bắt.”
1.2. Ý nghĩa của Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự:
- Thứ nhất, bảo vệ quyền sở hữu và tài sản cá nhân: Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp của người khác. Việc quy định hình phạt nghiêm khắc thể hiện sự bảo vệ của pháp luật đối với tài sản và quyền an toàn cá nhân.
- Thứ hai, ngăn ngừa hành vi cưỡng bức và tội phạm có tổ chức: Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015 không chỉ xử lý hành vi cá nhân mà còn tăng nặng hình phạt khi có tổ chức, tính chất chuyên nghiệp hoặc sử dụng vũ khí/thủ đoạn nguy hiểm. Điều này giúp ngăn chặn tội phạm có tổ chức, có tính chất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội.
- Thứ ba, phân hóa mức độ nghiêm trọng dựa trên hậu quả: Bộ luật hình sự năm 2015 quy định khung hình phạt tăng dần theo giá trị tài sản chiếm đoạt và mức độ thiệt hại về sức khỏe và tâm thần của nạn nhân, từ đó đảm bảo tính công bằng trong xét xử và tăng khả năng răn đe.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản:
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản hiện nay được quy định tại Điều 169 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:
“1. Người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Dùng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
d) Đối với người dưới 16 tuổi;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
g) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 18 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Làm chết người;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản:
2.1. Khách thể:
Khách thể của Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gồm những quan hệ sau:
- Xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác;
- Xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, quyền tự do thân thể, danh dự, nhân phẩm của công dân.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi “bắt cóc”. Đây là hành vi bắt người trái phép. Hành vi này được thực hiện lén lút và bất ngờ, sau đó người phạm tội yêu cầu người bị bắt cóc hoặc người thân của họ phải nộp một số tiền thì mới thả người, nếu không nộp tiền hoặc tài sản thì người bị bắt cóc sẽ bị nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm. Hành vi bắt người trái pháp luật được thực hiên bằng nhiều thủ đoạn khác nhau như:
- Dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực như đánh, trói, doạ giết, doạ đánh, doạ đem bán…;
- Hoặc bằng những thủ đoạn khác như cho uống thuốc ngủ, thuốc mê, lừa dối… .
Người phạm tội còn có hành vi đe doạ người khác (cơ quan, tổ chức hoặc người thân của con tin) nếu không giao nộp tiền hoặc tài sản thì người bị bắt cóc sẽ bị giết, bị đánh đập, hành hạ… Hành vi đe doạ người khác cũng có thể được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau như:
- Gọi điện thoại;
- Gửi thư;
- Nhắn tin qua người khác;
- Hoặc trực tiếp gặp người thân của người bị bắt cóc…
Hậu quả: Do đây là tội có cấu thành hình thức nên hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt không phải là yếu tố bắt buộc để định tội. Nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin là tội phạm đã hoàn thành. Tuy nhiên, nếu gây ra hậu quả thì tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn hoặc được xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt được thực hiện do cố ý (có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp).
Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Nếu hành vi bắt cóc người làm con tin lại nhằm một mục đích khác mà không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm tương ứng khác.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội có thể có trước khi thực hiện hành vi bắt cóc, nhưng cũng có thể xuất hiện trong hoặc sau khi đã thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của tội này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015 và đáp ứng điều kiện về độ tuổi. Cụ thể:
- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm;
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Khung hình phạt của Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản:
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015 có những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 18 năm.
- Khung 4: Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
- Người chuẩn bị phạm tội: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
4. Những tình tiết định khung tăng nặng của Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản:
Những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản được quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể như sau:
4.1. Tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
- Có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi tội phạm được thực hiện có tổ chức, tức là có nhiều người cùng bàn bạc, phân công nhiệm vụ và phối hợp thực hiện hành vi bắt cóc. Tình tiết này thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn, có khả năng gây hậu quả nghiêm trọng lớn hơn so với hành vi đơn lẻ thông thường khác. Pháp luật xem đây là tình tiết tăng nặng để áp dụng hình phạt nghiêm khắc hơn nhằm răn đe hành vi có tính đồng phạm, tổ chức và chuyên nghiệp trong xã hội.
- Có tính chất chuyên nghiệp theo điểm b khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
Theo tinh thần của Mục 5 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP thì tình tiết này được quy định như sau:
Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
+ Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích;
+ Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
- Dùng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác theo điểm c khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
Khoản 1 Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017 quy định: Vũ khí là thiết bị, phương tiện hoặc tổ hợp những phương tiện được chế tạo, sản xuất có khả năng gây sát thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất, bao gồm: vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao và vũ khí khác có tính năng, tác dụng tương tự.
“Vũ khí” là một trong các loại vũ khí được quy định tại Khoản 1 Điều 1 Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành kèm theo Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996 của Chính phủ), cụ thể bao gồm:
+ Vũ khí quân dụng gồm: các loại súng ngắn, súng trường, súng liên thành; các loại pháo, dàn phóng, bệ phóng tên lửa, súng cối, hóa chất độc và nguồn phóng xạ các loại đạn; bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, thủy lôi, vật liệu nổ quân dụng, hỏa cụ và vũ khí khác dùng cho mục đích quốc phòng – an ninh. Vũ khí thể thao gồm: các loại súng trường, súng ngắn thể theo chuyên dùng các cỡ; các loại súng hơi, các loại vũ khí khác dùng trong luyện tập, thi đấu thể thao và các loại đạn dùng cho các loại súng thể thao nói trên;
+ Súng săn gồm: Các loại súng săn một nòng, nhiều nòng các cỡ, tự động hoặc không tự động, súng hơi các cỡ, súng kíp, sung hoả mai, súng tự chế và các loại đạn, vỏ đạn, hạt nổ, thuốc đạn dùng cho các loại súng kể trên;
+ Vũ khí thô sơ gồm: Dao găm, kiếm, giáo, mác, đinh ba, đại đao, mã tấu, quả đấm bằng kim loại hoặc chất cứng, cung, nỏ, côn các loại và các loại khác do Bộ Nội vụ quy định.
Theo Mục 2 Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP: “Phương tiện nguy hiểm” là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khoẻ của người bị tấn công. Cụ thể:
+ Về công cụ, dụng cụ. Như: búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn…;
+ Về vật mà người phạm tội chế tạo ra. Như: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ…;
+ Về vật có sẵn trong tự nhiên. Như: gạch, đá, đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt…
- Đối với người dưới 16 tuổi theo điểm d khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi nạn nhân là người dưới 16 tuổi, mức độ nguy hại của hành vi tăng cao do đối tượng chưa trưởng thành, dễ bị tổn thương và không có khả năng tự vệ. Tình tiết này phản ánh sự xâm hại đặc biệt nghiêm trọng đối với trẻ em, vì vậy pháp luật tăng nặng hình phạt nhằm bảo vệ trẻ em và quyền lợi trẻ em.
- Đối với 02 người trở lên theo điểm đ khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
Bắt cóc từ 02 người trở lên làm tăng nguy cơ tổn hại, căng thẳng và hậu quả đối với xã hội. Tội phạm đa nạn nhân thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn, vì vậy pháp luật tăng nặng hình phạt để răn đe và đảm bảo công bằng cho nhiều nạn nhân.
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng theo điểm e khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
Tài sản chiếm đoạt có giá trị lớn cho thấy hậu quả kinh tế nghiêm trọng đối với nạn nhân và mức độ vụ lợi của người phạm tội cao hơn. Pháp luật tăng nặng hình phạt để đáp ứng nguyên tắc tương xứng giữa thiệt hại và mức độ trừng phạt, đồng thời răn đe các hành vi chiếm đoạt có giá trị lớn.
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% theo điểm g khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi hành vi bắt cóc kèm theo việc làm nạn nhân bị thương hoặc rối loạn tâm thần, đây là dấu hiệu nguy hiểm vượt mức so với việc chiếm đoạt tài sản đơn thuần. Tình tiết này phản ánh sự xâm hại trực tiếp đến thân thể và tinh thần của nạn nhân, do đó hình phạt được tăng nặng để bảo vệ sức khỏe và tính mạng của con người.
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội theo điểm h khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
Nếu hành vi bắt cóc làm lo lắng, hoang mang hoặc rối loạn trật tự công cộng, pháp luật coi đây là hành vi có tác động vượt ra ngoài nạn nhân trực tiếp, ảnh hưởng đến cộng đồng và xã hội. Hình phạt tăng nặng nhằm răn đe các hành vi gây bất ổn xã hội, không chỉ xử lý hậu quả riêng lẻ.
- Tái phạm nguy hiểm theo điểm i khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm (khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự 2015):
+ Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
+ Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
4.2. Tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 3 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng theo điểm a khoản 3 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
Giá trị tài sản lớn hơn mức trung bình cho thấy hậu quả kinh tế nặng nề, đồng thời thể hiện mức độ vụ lợi và tinh vi trong hành vi phạm tội. Hình phạt tăng nặng tương xứng để đáp ứng nguyên tắc công bằng và răn đe.
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% theo điểm b khoản 3 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi hành vi dẫn đến thương tích nặng hoặc rối loạn tâm thần từ mức trung bình đến nặng, nguy cơ ảnh hưởng lâu dài đến nạn nhân rất cao. Pháp luật tăng nặng hình phạt nhằm bảo vệ sức khỏe thể chất và tinh thần, đồng thời răn đe các hành vi nguy hiểm.
4.3. Tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 4 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên theo điểm a khoản 4 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
Tài sản có giá trị đặc biệt lớn làm hậu quả kinh tế nghiêm trọng, đồng thời phản ánh tính chất nghiêm trọng, chuyên nghiệp và manh động của tội phạm. Tăng nặng hình phạt đối với tình tiết này nhằm đảm bảo tính răn đe so với các trường hợp phạm tội thông thường khác.
- Làm chết người theo điểm b khoản 4 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
Nếu hành vi bắt cóc dẫn đến tử vong của nạn nhân, đây là tình tiết đặc biệt nghiêm trọng nhất. Pháp luật tăng nặng hình phạt tối đa, có thể đến tù chung thân vì đây là hành vi vừa xâm phạm tính mạng vừa chiếm đoạt tài sản, đe dọa an ninh và trật tự xã hội nghiêm trọng.
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên theo điểm c khoản 4 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015:
Thương tích đặc biệt nghiêm trọng hoặc rối loạn tâm thần nghiêm trọng thể hiện mức độ tàn ác và nguy hiểm cao nhất của hành vi. Hình phạt tăng nặng nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe và trật tự xã hội.
5. Phân biệt Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và Tội bắt cóc con tin:
Tiêu chí | Tội bắt cóc con tin (Điều 301 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015) |
Mục đích bắt cóc | Cưỡng ép quốc gia, tổ chức quốc tế, cơ quan, tổ chức, cá nhân làm hoặc không làm một việc nhất định để thả con tin. | Chiếm đoạt tài sản của người bị bắt cóc. |
Đối tượng bị hại đặc biệt | Người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai, người từ 70 tuổi trở lên hoặc người đang thi hành công vụ theo khoản 2 Điều 301 Bộ luật Hình sự 2015. | Người dưới 16 tuổi theo khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 04 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Khung 4: Phạt tù từ 08 năm đến 15 năm. Người chuẩn bị phạm tội: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. | Khung 1: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 18 năm. Khung 4: Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Người chuẩn bị phạm tội: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |
Phạt bổ sung | Không quy định hình phạt bổ sung. | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |
Tính chất pháp lý cơ bản | Hướng tới bảo vệ lợi ích công cộng, quốc gia, cơ quan, tổ chức, tính nguy hiểm xã hội cao nhưng hậu quả chủ yếu liên quan đến áp lực lên bên thứ ba để đạt mục đích. | Hướng tới bảo vệ tài sản và sức khỏe cá nhân, hậu quả kinh tế và thể chất trực tiếp; mục đích vụ lợi cá nhân. |
6. Bản án điển hình của Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản:
- Tên bản án:
Bản án số 20/2022/HS-ST ngày 23/02/2022 của Tòa án nhân thành phố Bà Rịa, tình Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Nội dung bản án:
Do Nguyễn Nhật T nợ Nguyễn Thanh M số tiền 270.000.000 (hai tram bảy mươi triệu) đồng, nên chiều ngày 11/11/2015, tại quán cà phê VL (số 205 đường Trương Công Định, phường 3, thành phố Vũng Tàu), Nguyễn Thanh M, Trần Văn Th, Trịnh Văn L và Lê Văn V đã có hành vi ép buộc Nguyễn Nhật T lên xe ô tô đưa về nhà nghỉ Thu Hà thuộc thị trấn Long Hải, huyện Long Điền với mục đích bắt giữ để T phải trả nợ.
Sau khi biết T không có khả năng trả nợ thì cả bọn thay nhau trông coi, không chế, đưa T đi nhiều nợ nhằm trốn tránh sự phát hiện của Công an đồng thời canh giữ không cho T bỏ trốn để đe dọa buộc gia đình T phải trả nợ thay cho T. Nguyễn Thanh M đã liên lạc với ông Nguyễn Công B (là cha ruột của Nguyễn Nhật T) yêu cầu phải mang tiền đến chuộc T.
Ngày 13/11/2015, tại quán cà phê Vilamast (số 131 Bạch Đằng, phường Phước Trung, thành phố Bà Rịa), Nguyễn Thanh M và Trần Văn Th bị bắt quả tang khi đang nhận số tiền 50.000.000 đồng từ gia đình bị hại. Tại quán cà phê VL, Lê Văn V sau khi nghe anh T nói chưa có tiền trả cho M đã giơ tay định đánh T nhưng được người khác can ngăn, sau đó tham gia đưa T từ nhà nghỉ Thu Hà đến quán nhậu 97 vào đêm ngày 12/11/2015 và trực tiếp gọi điện đe dọa ông Nguyễn Công B.
Lê Văn V thực hiện hành vi phạm tội trong khi đang có tiền án về tội đặc biệt nghiêm trọng, chưa được xóa án tích và chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng. Do đó hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản”.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn V (tên gọi khác: Tý) phạm tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản”.
+ Lê Văn V 5 (năm) năm 6 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/3/2021.
THAM KHẢO THÊM: