Skip to content
 1900.6568

Trụ sở chính: Số 89, phố Tô Vĩnh Diện, phường Khương Đình, thành phố Hà Nội

  • DMCA.com Protection Status
Home

  • Trang chủ
  • Về Luật Dương Gia
  • Lãnh đạo công ty
  • Đội ngũ Luật sư
  • Chi nhánh 3 miền
    • Trụ sở chính tại Hà Nội
    • Chi nhánh tại Đà Nẵng
    • Chi nhánh tại TPHCM
  • Pháp luật
  • Văn bản
  • Giáo dục
  • Bạn cần biết
  • Liên hệ Luật sư
    • Luật sư gọi lại tư vấn
    • Chat Zalo
    • Chat Facebook

Home

Đóng thanh tìm kiếm

  • Trang chủ
  • Đặt câu hỏi
  • Đặt lịch hẹn
  • Gửi báo giá
  • 1900.6568
Trang chủ Pháp luật Luật Hình sự

Quy định về đồng phạm qua các giai đoạn luật hình sự

  • 05/03/202405/03/2024
  • bởi Công ty Luật Dương Gia
  • Công ty Luật Dương Gia
    05/03/2024
    Theo dõi chúng tôi trên Google News

    Những quy phạm về các loại người đồng phạm theo pháp luật thực định Việt Nam qua ba Bộ luật hình sự (1985, 1999, 2015).

      Mục lục bài viết

      • 1 1. Những quy phạm về các loại người đồng phạm theo Bộ luật hình sự năm 1985:
      • 2 2. Những quy phạm về các loại người đồng phạm theo Bộ luật hình sự năm 1999:
      • 3 3. Những quy phạm về các loại người đồng phạm theo Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017):

      1. Những quy phạm về các loại người đồng phạm theo Bộ luật hình sự năm 1985:

      BLHS năm 1985 được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1986 và trải qua bốn lần sửa đổi bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997.

      Điều 17 BLHS năm 1985 quy định về đồng phạm và các loại người đồng phạm như sau:

      1. Hai hoặc nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm.

      2. Người thực hành, người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm.

      Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

      Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

      Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

      Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

      4. Khi quyết định hình phạt, phải xét đến tính chất đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hoặc loại trừ TNHS riêng cho người đồng phạm nào thì chỉ áp dụng đối với người đó.

      Tại phần các tội phạm, BLHS năm 1985 đã quy định về các loại người đồng phạm thông qua việc xử lý những người đồng phạm theo hướng phân hóa về khung hình phạt dựa vào vai trò và mức độ thực hiện hành vi của họ, cụ thể tại các Điều 72, 75, 76, 77, 83, 85. Các quy định này đều thể hiện người tổ chức, người xúi giục, người hoạt động đắc lực phải chịu mức hình phạt cao hơn những người đồng phạm khác.

      Để áp dụng thống nhất BLHS năm 1985, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 để hướng dẫn cụ thể về một số quy định của BLHS trong đó có hướng dẫn về việc tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm của người tổ chức tội phạm. Sau đó, Nghị quyết 01/HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về hướng dẫn bổ sung BLHS đã hướng dẫn cụ thể hơn về điều kiện của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức để được miễn TNHS theo Điều 16 BLHS 1985 về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.

      BLHS 1985 đã sử dụng thuật ngữ “đồng phạm” thay cho “cộng phạm” đã được sử dụng trong các văn bản PLHS trước đó. Theo quy định này thì đồng phạm là việc hai hoặc nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Ngoài ra, BLHS năm 1985 đã quy định người đồng phạm bao gồm người thực hành, người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức; đồng thời, đưa ra các dấu hiệu để xác định từng loại người đồng phạm, cũng như nguyên tắc quyết định hình phạt đối với từng loại người đồng phạm.

      Như vậy, BLHS năm 1985 đã có bước tiến vượt bậc khi đã có một Điều luật về đồng phạm, các loại người đồng phạm. Tuy nhiên, Bộ luật này vẫn còn hạn chế cơ bản về mặt kỹ thuật lập pháp, cụ thể là định nghĩa pháp lý của khái niệm đồng phạm sử dụng cụm từ “hai hoặc nhiều người” là chưa phù hợp, bởi lẽ, nhiều người được hiểu là từ hai người trở lên nên việc sử dụng từ trên là chưa chuẩn xác về mặt khoa học. Đồng thời, cụm từ “cùng thực hiện một tội phạm” chỉ bao hàm hành vi của người thực hành, không bao hàm hành vi của những người đồng phạm khác như người tổ chức, người xúi giục.

      Bởi lẽ, chỉ có người thực hành mới có hành vi thực hiện tội phạm, những người khác chỉ tham gia vào việc thực hiện tội phạm đó, do vậy, thuật ngữ phù hợp nên là “cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm”.

      Đối với định nghĩa pháp lý về người thực hành, người xúi giục, người giúp sức: Theo như những phân tích tại mục 1.1.2 chương này thì các định nghĩa pháp lý về người thực hành, người xúi giục còn chưa đầy đủ, cụ thể: định nghĩa người thực hành thiếu trường hợp người thực hành là người thực hiện tội phạm bằng thủ đoạn sử dụng người mà theo các quy định của BLHS không phải chịu TNHS, định nghĩa người giúp sức thiếu trường hợp người giúp sức dùng thủ đoạn khác thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm; định nghĩa pháp lý về người giúp sức còn trừu tượng và chưa rõ ràng, chưa khái quát được biểu hiện của sự giúp sức về vật chất và giúp sức về tinh thần.

      Không những vậy, BLHS năm 1985 chưa có định nghĩa về người đồng phạm; chưa quy định vấn đề TNHS khi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và TNHS trong các giai đoạn thực hiện tội phạm của ba loại người đồng phạm còn lại (người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức). Các nhà nghiên cứu, người áp dụng luật chỉ có thể dựa vào các quy định của trường hợp phạm tội riêng lẻ để xác định TNHS của các loại người đồng phạm khác trong đồng phạm. Đặc biệt, BLHS này cũng “còn thiếu quy phạm về sự thái quá của người thực hành và vấn đề TNHS của những người đồng phạm khác trong trường hợp này”.

      2. Những quy phạm về các loại người đồng phạm theo Bộ luật hình sự năm 1999:

      Trong 14 năm thi hành, BLHS năm 1985 đã có vai trò đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa rất lớn trong công cuộc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm ở Việt Nam. Tuy nhiên, để đáp ứng kịp thời việc điều chỉnh các quan hệ xã hội mới hình thành và phát triển, Quốc hội khoá X đã thông qua BLHS Việt Nam năm 1999 vào ngày 21/12/1999. Bộ luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2000.

      Điều 20 BLHS năm 1999 quy định về đồng phạm và các loại người đồng phạm như sau:

      1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

      2. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm.

      Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

      Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

      Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

      Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

      Tương tự như BLHS năm 1985, tại phần các tội phạm của BLHS năm 1999 cũng đã quy định về các loại người đồng phạm thông qua việc xử lý những người đồng phạm theo hướng phân hóa về khung hình phạt dựa vào vai trò và mức độ thực hiện hành vi của họ, cụ thể tại các Điều 79, 81, 82, 83, 89. Các quy định này đều thể hiện người tổ chức, người xúi giục, người hoạt động đắc lực phải chịu mức hình phạt cao hơn những người đồng phạm khác.

      Như vậy, định nghĩa pháp lý về đồng phạm đã có sự sửa đổi cụm từ “hai hoặc nhiều người” thành cụm từ “hai người trở lên” để có sự chính xác về mặt khoa học. Tuy nhiên, BLHS năm 1999 vẫn giữ nguyên hạn chế của BLHS năm 1985 khi giữ nguyên cụm từ “cùng thực hiện một tội phạm”.

      Đồng thời, trong phần chung của BLHS năm 1999 vẫn chưa có quy định định nghĩa về người đồng phạm; các định nghĩa pháp lý về người thực hành, người tổ chức, người xúi giục còn chưa đầy đủ; còn định nghĩa pháp lý về người giúp sức còn trừu tượng và còn chung chung.

      Khác với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 đã tách vấn đề quyết định hình phạt đối những người đồng phạm ra thành một điều luật riêng nhưng vẫn giữ nguyên nội dung cũ. Cụ thể:

      Điều 53. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm

      Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Toà án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.

      Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ TNHS thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.

      Tương tự như BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 chưa quy định vấn đề TNHS khi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và TNHS trong các giai đoạn thực hiện tội phạm của ba loại người đồng phạm còn lại (người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức). Đồng thời, Bộ luật này vẫn chưa quy định về hành vi vượt quá của người thực hành và vấn đề TNHS của những người đồng phạm khác trong trường hợp này.

      3. Những quy phạm về các loại người đồng phạm theo Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017):

      Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XIV đã thông qua BLHS năm 2015, dự kiến sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2016. Tuy nhiên, do có những sai sót trong kỹ thuật lập pháp nên bị sửa đổi vào năm 2017 và phải lùi hiệu lực thi hành đến ngày 01/01/2018.

      Điều 17 BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về đồng phạm và các loại người đồng phạm như sau:

      1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

      2. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

      Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

      Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

      Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

      Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

      4. Người đồng phạm không phải chịu TNHS về hành vi vượt quá của người thực hành.

      Tương tự như BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999, tại phần các tội phạm của BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng đã quy định về các loại người đồng phạm thông qua việc xử lý những người đồng phạm theo hướng phân hóa về khung hình phạt dựa vào vai trò và mức độ thực hiện hành vi của họ, cụ thể tại các Điều 109, 111, 112, 118. Các quy định này đều thể hiện người tổ chức, người xúi giục, người hoạt động đắc lực phải chịu mức hình phạt cao hơn những người đồng phạm khác.

      Điều 58 của BLHS này quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm:

      Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.

      Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ TNHS thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.

      Khoản 2 Điều 54 quy định:

      Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

      Đây là quy định mới, thể hiện nguyên tắc cá thể hóa TNHS.

      Như vậy, BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) vẫn giữ nguyên những điểm hạn chế của BLHS năm 1999 đối với định nghĩa pháp lý của đồng phạm, các loại người đồng phạm. Cụ thể như: giữ nguyên cụm từ “cùng thực hiện một tội phạm”; chưa có quy định định nghĩa về người đồng phạm; các định nghĩa pháp lý về người thực hành, người tổ chức, người xúi giục còn chưa đầy đủ; còn định nghĩa pháp lý về người giúp sức còn trừu tượng và còn chung chung; chưa quy định về vấn đề TNHS khi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và TNHS trong các giai đoạn thực hiện tội phạm của ba loại người đồng phạm còn lại (người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức).

      Tuy nhiên, so với hai BLHS trước đó, các nhà làm luật đã bổ khoản 4 vào Điều 17 BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) với 4 nội dung “Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành”. Đây là “lần đầu tiên trong lần pháp điển hoá thứ ba nhằm góp phần khẳng định rõ các nguyên tắc nhân đạo, cá thể hoá và phân hoá tối đa TNHS của PLHS trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền”. Mặc dù đã ghi nhận về hành vi “vượt quá của người thực hành” nhưng BLHS này vẫn còn điểm hạn chế khi không định nghĩa về hành vi vượt quá của người thực hành.

      Duong Gia Facebook Duong Gia Tiktok Duong Gia Youtube Duong Gia Google

        Liên hệ với Luật sư để được hỗ trợ:

      •   Tư vấn pháp luật qua Email
         Tư vấn nhanh với Luật sư
      -
      CÙNG CHUYÊN MỤC
      • Tụ tập sử dụng ma túy trong khách sạn bị xử lý thế nào?
      • Có được cách ly người làm chứng với bị cáo tại phiên tòa?
      • Tù chung thân có được giảm thành tù có thời hạn không?
      • Tiền thu được từ vụ án đánh bạc được bảo quản thế nào?
      • Mẫu đơn xin trích lục giấy ra trại, đơn xin cấp lại giấy ra tù
      • Quy trình giám định pháp y tâm thần? Phải giám định ở đâu?
      • Luật sư bào chữa các tội liên quan đến hoạt động mại dâm
      • Luật sư bào chữa tội che giấu, không tố giác tội phạm
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa tội chống người thi hành công vụ
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa tội buôn lậu, mua bán hàng giả
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa trong các vụ án cho vay nặng lãi
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa tội gây rối trật tự nơi công cộng
      BÀI VIẾT MỚI NHẤT
      • Quấy rối tình dục bằng lời nói, cử chỉ bị xử lý như thế nào?
      • Tụ tập sử dụng ma túy trong khách sạn bị xử lý thế nào?
      • Thủ tục kết nạp Đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
      • Mức trợ cấp một lần khi suy giảm khả năng lao động
      • Danh sách công ty đấu giá, tổ chức đấu giá tại Bình Thuận
      • Có được cách ly người làm chứng với bị cáo tại phiên tòa?
      • Tù chung thân có được giảm thành tù có thời hạn không?
      • Tiền thu được từ vụ án đánh bạc được bảo quản thế nào?
      • Con phạm tội hành hạ cha mẹ được hưởng thừa kế không?
      • Mẫu đơn xin trích lục giấy ra trại, đơn xin cấp lại giấy ra tù
      • Danh sách 135 xã, phường của Gia Lai (mới) sau sáp nhập
      • 48 xã, 16 phường, 01 đặc khu của Khánh Hoà sau sáp nhập
      LIÊN KẾT NỘI BỘ
      • Tư vấn pháp luật
      • Tư vấn luật tại TPHCM
      • Tư vấn luật tại Hà Nội
      • Tư vấn luật tại Đà Nẵng
      • Tư vấn pháp luật qua Email
      • Tư vấn pháp luật qua Zalo
      • Tư vấn luật qua Facebook
      • Tư vấn luật ly hôn
      • Tư vấn luật giao thông
      • Tư vấn luật hành chính
      • Tư vấn pháp luật hình sự
      • Tư vấn luật nghĩa vụ quân sự
      • Tư vấn pháp luật thuế
      • Tư vấn pháp luật đấu thầu
      • Tư vấn luật hôn nhân gia đình
      • Tư vấn pháp luật lao động
      • Tư vấn pháp luật dân sự
      • Tư vấn pháp luật đất đai
      • Tư vấn luật doanh nghiệp
      • Tư vấn pháp luật thừa kế
      • Tư vấn pháp luật xây dựng
      • Tư vấn luật bảo hiểm y tế
      • Tư vấn pháp luật đầu tư
      • Tư vấn luật bảo hiểm xã hội
      • Tư vấn luật sở hữu trí tuệ
      LIÊN KẾT NỘI BỘ
      • Tư vấn pháp luật
      • Tư vấn luật tại TPHCM
      • Tư vấn luật tại Hà Nội
      • Tư vấn luật tại Đà Nẵng
      • Tư vấn pháp luật qua Email
      • Tư vấn pháp luật qua Zalo
      • Tư vấn luật qua Facebook
      • Tư vấn luật ly hôn
      • Tư vấn luật giao thông
      • Tư vấn luật hành chính
      • Tư vấn pháp luật hình sự
      • Tư vấn luật nghĩa vụ quân sự
      • Tư vấn pháp luật thuế
      • Tư vấn pháp luật đấu thầu
      • Tư vấn luật hôn nhân gia đình
      • Tư vấn pháp luật lao động
      • Tư vấn pháp luật dân sự
      • Tư vấn pháp luật đất đai
      • Tư vấn luật doanh nghiệp
      • Tư vấn pháp luật thừa kế
      • Tư vấn pháp luật xây dựng
      • Tư vấn luật bảo hiểm y tế
      • Tư vấn pháp luật đầu tư
      • Tư vấn luật bảo hiểm xã hội
      • Tư vấn luật sở hữu trí tuệ
      Dịch vụ luật sư uy tín toàn quốc


      Tìm kiếm

      Duong Gia Logo

      •   Tư vấn pháp luật qua Email
         Tư vấn nhanh với Luật sư

      VĂN PHÒNG MIỀN BẮC:

      Địa chỉ: 89 Tô Vĩnh Diện, phường Khương Đình, thành phố Hà Nội, Việt Nam

       Điện thoại: 1900.6568

       Email: dichvu@luatduonggia.vn

      VĂN PHÒNG MIỀN TRUNG:

      Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hoà Xuân, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam

       Điện thoại: 1900.6568

       Email: danang@luatduonggia.vn

      VĂN PHÒNG MIỀN NAM:

      Địa chỉ: 227 Nguyễn Thái Bình, phường Tân Sơn Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

       Điện thoại: 1900.6568

        Email: luatsu@luatduonggia.vn

      Bản quyền thuộc về Luật Dương Gia | Nghiêm cấm tái bản khi chưa được sự đồng ý bằng văn bản!

      Chính sách quyền riêng tư của Luật Dương Gia

      • Chatzalo Chat Zalo
      • Chat Facebook Chat Facebook
      • Chỉ đường picachu Chỉ đường
      • location Đặt câu hỏi
      • gọi ngay
        1900.6568
      • Chat Zalo
      Chỉ đường
      Trụ sở chính tại Hà NộiTrụ sở chính tại Hà Nội
      Văn phòng tại Đà NẵngVăn phòng tại Đà Nẵng
      Văn phòng tại TPHCMVăn phòng tại TPHCM
      Gọi luật sư Gọi luật sư Yêu cầu dịch vụ Yêu cầu dịch vụ
      • Gọi ngay
      • Chỉ đường

        • HÀ NỘI
        • ĐÀ NẴNG
        • TP.HCM
      • Đặt câu hỏi
      • Trang chủ