Skip to content
 1900.6568

Trụ sở chính: Số 89, phố Tô Vĩnh Diện, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

  • DMCA.com Protection Status
Home

  • Trang chủ
  • Về Luật Dương Gia
  • Lãnh đạo công ty
  • Đội ngũ Luật sư
  • Chi nhánh 3 miền
    • Trụ sở chính tại Hà Nội
    • Chi nhánh tại Đà Nẵng
    • Chi nhánh tại TPHCM
  • Pháp luật
  • Văn bản
  • Giáo dục
  • Bạn cần biết
  • Liên hệ Luật sư
    • Luật sư gọi lại tư vấn
    • Chat Zalo
    • Chat Facebook

Home

Đóng thanh tìm kiếm

  • Trang chủ
  • Đặt câu hỏi
  • Đặt lịch hẹn
  • Gửi báo giá
  • 1900.6568
Trang chủ Pháp luật Luật Hình sự

Pháp luật TTHS về người bào chữa từ 1945 đến trước 2015  

  • 11/12/202311/12/2023
  • bởi Công ty Luật Dương Gia
  • Công ty Luật Dương Gia
    11/12/2023
    Theo dõi chúng tôi trên Google News

    Pháp luật TTHS có thể chia làm 03 giai đoạn: giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988, từ năm 1989 đến năm 2003 và từ năm 2004 đến trước khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành.

      Khi xem xét các qui định về địa vị pháp lý của người bào chữa (NBC) ở nước ta từ năm 1945 đến trước khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành, dựa trên hoàn cảnh lịch sử và sự phát triển của pháp luật TTHS có thể chia làm 03 giai đoạn: giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988, từ năm 1989 đến năm 2003 và từ năm 2004 đến trước khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành.

      Mục lục bài viết

      • 1 1. Giai đoạn thứ nhất từ năm 1945 đến năm 1988: Giai đoạn này, đất nước ta chưa ban hành BLTTHS
      • 2 2. Giai đoạn thứ hai từ năm 1989 năm 2003: BLTTHS đầu tiên năm 1988 được ban hành:
      • 3 3. Giai đoạn thứ ba từ năm 2004 đến trước khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành: BLTTHS năm 2003 được ban hành:

      1. Giai đoạn thứ nhất từ năm 1945 đến năm 1988: Giai đoạn này, đất nước ta chưa ban hành BLTTHS

      Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, để bảo đảm cho việc xử lí tội phạm được kịp thời, Nhà nước đã ban hành sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 quy định việc thành lập toà án quân sự, trong đó có quy định: “Bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho” [Điều 1]. Theo đó, Sắc lệnh đã ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo, bị cáo có thể tự mình bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho mình, tuy nhiên điều luật sử dụng cụm từ “một người khác bênh vực” chứ không phải NBC, đồng thời cũng không qui định cụ thể người bênh vực cho bị cáo có thể là những ai, có quyền và nghĩa vụ như thế nào.

      Ngày 10/10/1945, Sắc lệnh số 46 về tổ chức đoàn thể luật sư được ban hành, quy định việc duy trì tổ chức luật sư, trong đó đã có sự vận dụng linh hoạt các quy định pháp luật của chế độ cũ về luật sư nhưng không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hoà. Đến ngày 14/02/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành sắc lệnh số 21 bổ sung sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945. Điều 5 của Sắc lệnh 21 qui định: “Bị cáo có quyền tự bênh vực lấy hay nhờ luật sư hoặc một người khác bênh vực cho”. Sắc lệnh 21 đã bổ sung thêm Luật sư là người có quyền bào chữa cho bị cáo, bên cạnh một người khác bênh vực như qui định của Sắc lệnh 33C, tuy nhiên Sắc lệnh cũng không làm rõ người khác bênh vực cho bị cáo có thể là những ai, có quyền và nghĩa vụ như thế nào.

      Bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta được ban hành năm 1946 đã khẳng định quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân tại Điều 67: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”. Tuy nhiên do điều kiện lúc bấy giờ số lượng luật sư ở nước ta còn rất ít, mặt khác do hoàn cảnh kháng chiến, một số luật sư đã tham gia cách mạng, còn một số luật sư thì chuyển sang hoạt động ở lĩnh vực khác. Vì vậy, vào thời kỳ này hầu như các Văn phòng luật sư đều ngừng hoạt động. Để bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, trong khi số lượng luật sư còn ít, Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 qui định bị can có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bào chữa cho trước Tòa án. Công dân do bị can đã tự chọn để bênh vực mình phải được Chánh án thừa nhận [Điều 1]. Nếu bị can không có ai bào chữa, Chánh án có quyền cử một người ra bào chữa cho bị can. Quy định về sự chỉ định NBC cho bị can trong vụ án như trên được coi như sự nhân đôi bảo đảm quyền bào chữa cho họ, là quy định mang tính nhân đạo của Luật Tố tụng hình sự nước ta. Bên cạnh việc qui định về quyền tham gia bào chữa trong TTHS, Sắc lệnh 69 cũng qui định hai nghĩa vụ của người bào chữa. Đó là việc NBC không được “nhận tiền thù lao của bị can hay của thân nhân bị can. Người nào phạm vào điều này sẽ bị truy tố và trừng phạt như tội lừa đảo” [Điều 3] và việc NBC phải bảo mật những thông tin có trong hồ sơ vụ án: “Người nào để lộ những điều bí mật đã biết trong khi xem hồ sơ, hoặc trong cuộc thẩm vấn tại phiên toà mà công chúng không được dự thính, sẽ bị phạt từ 1 đến 5 năm tù và từ 1.000 đồng đến 10.000 đồng” [Điều 4].

      Giai đoạn này miền Bắc nước ta mới giành được độc lập và khởi đầu xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, hoàn cảnh về kinh tế và chính trị hết sức khó khăn, miền Nam vẫn còn trong điều kiện chiến tranh, tuy nhiên Nhà nước vẫn hết sức quan tâm đến quyền của NBBT, thể hiện ở việc đã ghi nhận cho họ có quyền tự bào chữa cũng như quyền mời NBC cho mình, đồng thời không ngừng sửa đổi, bổ sung thêm những qui định để đảm bảo hơn nữa cho quyền bào chữa của NBBT cũng như đảm bảo địa vị pháp lý của NBC khi tham gia vào TTHS.

      2. Giai đoạn thứ hai từ năm 1989 năm 2003: BLTTHS đầu tiên năm 1988 được ban hành:

      Để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời thống nhất trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án hình sự nhằm xử lí công minh, kịp thời tội phạm và người phạm tội, ngày 28/6/1988, tại kì họp thứ ba, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989.

      BLTTHS năm 1988 qui định việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS:

      Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ [Điều 12].

      Quyền bào chữa của bị can bị cáo còn được đảm bảo bởi nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án qui định tại Điều 20:

      Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn  dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án và những người đại diện hợp pháp của họ đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu và tranh luận trước Toà án.

      Địa vị pháp lý của NBC được qui định tại 3 Điều: Điều 35 – Người bào chữa, Điều 36 – Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa và Điều 37 – Lựa chọn và thay đổi người bào chữa.

      NBC được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp cần phải giữ bí mật điều tra đối với tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quyết định để NBC tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra [Điều 36].

      NBC có thể do bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn. Trong những trường hợp được qui định tại Khoản 2 Điều 37 BLTTHS năm 1988, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời NBC thì các CQTHTT phải yêu cầu Đoàn luật sư cử NBC cho họ, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối NBC được chỉ định này.

      Lần đầu tiên, quyền và nghĩa vụ của NBC được ghi nhận cụ thể trong một văn bản pháp lý TTHS. Điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó tạo điều kiện cho NBC thực hiện chức năng của mình khi tham gia vào quá trình tố tụng. Mặc dù vậy, quyền của NBC khi tham gia vào TTHS vẫn còn hết sức hạn chế, chưa thể hiện hết được vị trí và vai trò của NBC khi thực hiện chức năng bào chữa của mình.

      3. Giai đoạn thứ ba từ năm 2004 đến trước khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành: BLTTHS năm 2003 được ban hành:

      Cũng giống như BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 cũng qui định ba điều về địa vị pháp lý của NBC: Điều 56 – Người bào chữa, Điều 57 – Lựa chọn và thay đổi người bào chữa và Điều 58 – Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.

      Đối với qui định về NBC, so với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 không có sự thay đổi về qui định những người có thể là NBC và những trường hợp không được bào chữa, tuy nhiên BLTTHS năm 2003 đã qui định cụ thể hơn về thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa cho NBC để tham gia tố tụng. Việc qui định như vậy đã tạo điều kiện cho NBC có thể thuận lợi tham gia vào quá trình tố tụng.

      Về việc chỉ định NBC cho bị can, bị cáo, BLTTHS năm 2003 qui định thêm trường hợp nếu thuộc trường hợp qui định tại Khoản 2 Điều 57 thì CQTHTT ngoài việc yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử NBC thì CQTHTT có thể đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Đồng thời qui định việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.

      Quyền của NBC cũng được mở rộng hơn so với BLTTHS năm 1988. Thời điểm NBC bắt đầu tham gia tố tụng là từ khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp thân chủ của họ bị bắt theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 BLTTHS năm 2003, chứ không phải từ khi khởi tố bị can như qui định của BLTTHS năm 1988. Ngoài những quyền như qui định của BLTTHS năm 1988, NBC còn có thêm những quyền sau:

      – Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ;

      – Xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

      – Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

      – Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

      – Gặp người bị tạm giữ

      – Sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

      Không chỉ bổ sung thêm quyền cho NBC, BLTTHS năm 2003 cũng qui định thêm những nghĩa vụ sau đối với NBC:

      – Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án

      – Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;

      – Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;

      – Không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.

      BLTTHS năm 2003 cũng bổ sung qui định trường hợp NBC làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận NBC, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

      Duong Gia Facebook Duong Gia Tiktok Duong Gia Youtube Duong Gia Google

        Liên hệ với Luật sư để được hỗ trợ:

      •   Tư vấn pháp luật qua Email
         Tư vấn nhanh với Luật sư
      -
      CÙNG CHUYÊN MỤC
      • Quy trình giám định pháp y tâm thần? Phải giám định ở đâu?
      • Luật sư bào chữa các tội liên quan đến hoạt động mại dâm
      • Luật sư bào chữa tội che giấu, không tố giác tội phạm
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa tội chống người thi hành công vụ
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa tội buôn lậu, mua bán hàng giả
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa trong các vụ án cho vay nặng lãi
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa tội gây rối trật tự nơi công cộng
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa tội trốn thuế, mua bán hóa đơn
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa tội dâm ô, hiếp dâm, cưỡng dâm
      • Dịch vụ Luật sư bào chữa tội trộm cắp tài sản, cướp tài sản
      • Luật sư tham gia trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
      • Luật sư tham gia trong vụ án xúc phạm nhân phẩm danh dự
      BÀI VIẾT MỚI NHẤT
      • Viết đoạn văn đóng vai lão Hạc kể lại câu chuyện bán chó
      • Cảm nhận về Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng)
      • Đổi mới phương pháp giáo dục pháp luật học sinh, sinh viên?
      • Soạn bài Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân – Lớp 6 Chân trời sáng tạo
      • Đóng vai Giôn-xi kể lại câu chuyện Chiếc lá cuối cùng
      • Nam Á có mấy miền địa hình? Nêu rõ đặc điểm các miền?
      • Toán Vừa gà vừa chó bó lại cho tròn 36 con 100 chân chẵn
      • Thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô đại cáo chọn lọc siêu hay
      • Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt
      • Viết 4-5 câu kể về buổi đi chơi cùng người thân ý nghĩa
      • Như thế nào được coi là người tham gia giao thông có văn hóa?
      • Kết bài Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) hay nhất
      LIÊN KẾT NỘI BỘ
      • Tư vấn pháp luật
      • Tư vấn luật tại TPHCM
      • Tư vấn luật tại Hà Nội
      • Tư vấn luật tại Đà Nẵng
      • Tư vấn pháp luật qua Email
      • Tư vấn pháp luật qua Zalo
      • Tư vấn luật qua Facebook
      • Tư vấn luật ly hôn
      • Tư vấn luật giao thông
      • Tư vấn luật hành chính
      • Tư vấn pháp luật hình sự
      • Tư vấn luật nghĩa vụ quân sự
      • Tư vấn pháp luật thuế
      • Tư vấn pháp luật đấu thầu
      • Tư vấn luật hôn nhân gia đình
      • Tư vấn pháp luật lao động
      • Tư vấn pháp luật dân sự
      • Tư vấn pháp luật đất đai
      • Tư vấn luật doanh nghiệp
      • Tư vấn pháp luật thừa kế
      • Tư vấn pháp luật xây dựng
      • Tư vấn luật bảo hiểm y tế
      • Tư vấn pháp luật đầu tư
      • Tư vấn luật bảo hiểm xã hội
      • Tư vấn luật sở hữu trí tuệ
      LIÊN KẾT NỘI BỘ
      • Tư vấn pháp luật
      • Tư vấn luật tại TPHCM
      • Tư vấn luật tại Hà Nội
      • Tư vấn luật tại Đà Nẵng
      • Tư vấn pháp luật qua Email
      • Tư vấn pháp luật qua Zalo
      • Tư vấn luật qua Facebook
      • Tư vấn luật ly hôn
      • Tư vấn luật giao thông
      • Tư vấn luật hành chính
      • Tư vấn pháp luật hình sự
      • Tư vấn luật nghĩa vụ quân sự
      • Tư vấn pháp luật thuế
      • Tư vấn pháp luật đấu thầu
      • Tư vấn luật hôn nhân gia đình
      • Tư vấn pháp luật lao động
      • Tư vấn pháp luật dân sự
      • Tư vấn pháp luật đất đai
      • Tư vấn luật doanh nghiệp
      • Tư vấn pháp luật thừa kế
      • Tư vấn pháp luật xây dựng
      • Tư vấn luật bảo hiểm y tế
      • Tư vấn pháp luật đầu tư
      • Tư vấn luật bảo hiểm xã hội
      • Tư vấn luật sở hữu trí tuệ
      Dịch vụ luật sư uy tín toàn quốc


      Tìm kiếm

      Duong Gia Logo

      •   ĐẶT CÂU HỎI TRỰC TUYẾN
         ĐẶT LỊCH HẸN LUẬT SƯ

      VĂN PHÒNG HÀ NỘI:

      Địa chỉ: 89 Tô Vĩnh Diện, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, Việt Nam

       Điện thoại: 1900.6568

       Email: dichvu@luatduonggia.vn

      VĂN PHÒNG MIỀN TRUNG:

      Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hoà Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam

       Điện thoại: 1900.6568

       Email: danang@luatduonggia.vn

      VĂN PHÒNG MIỀN NAM:

      Địa chỉ: 227 Nguyễn Thái Bình, phường 4, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

       Điện thoại: 1900.6568

        Email: luatsu@luatduonggia.vn

      Bản quyền thuộc về Luật Dương Gia | Nghiêm cấm tái bản khi chưa được sự đồng ý bằng văn bản!

      Chính sách quyền riêng tư của Luật Dương Gia

      • Chatzalo Chat Zalo
      • Chat Facebook Chat Facebook
      • Chỉ đường picachu Chỉ đường
      • location Đặt câu hỏi
      • gọi ngay
        1900.6568
      • Chat Zalo
      Chỉ đường
      Trụ sở chính tại Hà NộiTrụ sở chính tại Hà Nội
      Văn phòng tại Đà NẵngVăn phòng tại Đà Nẵng
      Văn phòng tại TPHCMVăn phòng tại TPHCM
      Gọi luật sư Gọi luật sư Yêu cầu dịch vụ Yêu cầu dịch vụ
      • Gọi ngay
      • Chỉ đường

        • HÀ NỘI
        • ĐÀ NẴNG
        • TP.HCM
      • Đặt câu hỏi
      • Trang chủ