Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, người làm chứng và người chứng kiến đều được coi là những người tham gia tố tụng quan trọng. Tuy nhiên không ít người thường nhầm lẫn hai khái niệm này và cho rằng đây chỉ là cách gọi khác nhau của cùng một vai trò. Dưới đây là bài viết phân biệt cụ thể giữa người làm chứng và người chứng kiến.
Mục lục bài viết
- 1 1. Người làm chứng và người chứng kiến được quy định như thế nào?
- 2 2. Phân biệt giữa người làm chứng và người chứng kiến:
- 3 3. Trách nhiệm pháp lý và giá trị chứng cứ của lời khai và việc chứng kiến:
- 4 4. Ý nghĩa của việc phân biệt người làm chứng và người chứng kiến:
- 5 5. Người làm chứng có bị dẫn giải tới tòa nếu không có mặt theo giấy triệu tập không?
- 6 6. Hậu quả pháp lý khi nhầm lẫn giữa người làm chứng và người chứng kiến:
- 7 7. Kinh nghiệm thực tiễn trong việc xác định và mời đúng đối tượng:
1. Người làm chứng và người chứng kiến được quy định như thế nào?
1.1. Quy định về người làm chứng:
Người làm chứng là một chủ thể tham gia tố tụng, được pháp luật ghi nhận trong nhiều lĩnh vực tố tụng khác nhau, bao gồm tố tụng hình sự và tố tụng dân sự. Về mặt pháp lý, người làm chứng được hiểu là người biết những tình tiết có liên quan đến vụ án và được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để làm rõ sự thật khách quan của vụ việc.
- Trong tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 66 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định: Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng. Quy định này cho thấy mục đích của người làm chứng là cung cấp thông tin phục vụ cho việc chứng minh sự thật khách quan của vụ án hình sự, giúp cơ quan tố tụng đánh giá và xác minh các chứng cứ đã thu thập.
- Trong tố tụng dân sự, Điều 77 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định: Người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ việc được đương sự đề nghị, Tòa án triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Người mất năng lực hành vi dân sự không thể là người làm chứng. Điều này nhấn mạnh rằng, vai trò của người làm chứng không chỉ giới hạn trong tố tụng hình sự mà còn được áp dụng rộng rãi trong tố tụng dân sự nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ việc được công khai, khách quan và đúng pháp luật.
Điều kiện trở thành người làm chứng được pháp luật quy định rõ ràng: người đó phải có khả năng nhận thức và khả năng khai báo trung thực những gì mình biết về vụ việc. Những người không thể làm chứng bao gồm người mất năng lực hành vi dân sự, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần làm cản trở việc khai báo trung thực và chính xác. Quy định này xuất phát từ yêu cầu bảo đảm tính khách quan của lời khai và sự công bằng trong quá trình giải quyết vụ án.
1.2. Quy định về người chứng kiến:
Khác với người làm chứng, người chứng kiến được pháp luật quy định chủ yếu trong tố tụng hình sự.
Khoản 1 Điều 67 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Người chứng kiến là người được cơ quan có thẩm quyền triệu tập để có mặt chứng kiến khi tiến hành một số hoạt động tố tụng nhất định như:
- Khám xét, thu giữ vật chứng;
- Thực nghiệm điều tra;
- Mở niêm phong;
- Và các hoạt động tố tụng khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hinh sự 2015.
Mục đích của sự có mặt của người chứng kiến là để bảo đảm tính khách quan, công khai và hợp pháp của hoạt động tố tụng, tránh trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện sai quy định hoặc bị nghi ngờ làm sai lệch chứng cứ.
Người chứng kiến không có nghĩa vụ cung cấp lời khai về nội dung vụ án như người làm chứng, mà nhiệm vụ chính của họ là xác nhận rằng các hoạt động tố tụng được tiến hành đúng trình tự pháp luật. Họ không phải là nguồn chứng cứ trực tiếp về tình tiết vụ án nhưng sự có mặt của họ góp phần làm cho chứng cứ thu thập được từ hoạt động tố tụng đó trở nên hợp pháp và có giá trị trước Tòa án.
Để trở thành người chứng kiến, cá nhân phải có năng lực hành vi đầy đủ và không thuộc trường hợp quy định cấm tham gia tố tụng. Thông thường, cơ quan tố tụng sẽ lựa chọn người chứng kiến trong cộng đồng, bảo đảm họ không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, nhằm giữ sự khách quan trong hoạt động chứng kiến.
2. Phân biệt giữa người làm chứng và người chứng kiến:
2.1. Điểm giống nhau giữa người làm chứng và người chứng kiến:
a. Đều là người tham gia tố tụng theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:
- Đều là người tham gia tố tụng và có quyền, nghĩa vụ được pháp luật bảo vệ khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
b. Cùng yêu cầu về tính khách quan và không thiên vị:
- Dù là làm chứng hay chứng kiến, họ đều phải trung thực, khách quan và không thiên vị bất kỳ bên nào;
- Việc tham gia phải xuất phát từ yêu cầu hợp pháp của cơ quan tiến hành tố tụng.
c. Cùng có trách nhiệm hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng:
- Người làm chứng và người chứng kiến đều phải có mặt khi được triệu tập hoặc mời hợp lệ, thực hiện nhiệm vụ được giao và không gây cản trở hoạt động tố tụng.
d. Đều có thể bị xử lý nếu vi phạm nghĩa vụ được pháp luật quy định:
- Nếu khai báo gian dối (người làm chứng) hoặc xác nhận sai sự thật (người chứng kiến), họ có thể bị xử lý hình sự hoặc hành chính;
- Nếu cố tình vắng mặt hoặc từ chối hợp tác không có lý do chính đáng, họ có thể bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
2.2. Điểm khác nhau giữa người làm chứng và người chứng kiến:
Tiêu chí | Người làm chứng | Người chứng kiến |
---|---|---|
Căn cứ pháp luật | Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. | Điều 67 và Điều 176 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. |
Khái niệm | người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng. | người chứng kiến là người được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu chứng kiến việc tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. |
Mục đích tham gia | Biết được tình tiết liên quan đến vụ án, tội phạm và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng. Người làm chứng khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo, trốn tránh việc khai báo mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự. Cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc hoặc học tập có trách nhiệm tạo điều kiện để họ tham gia tố tụng. | Được mời để chứng kiến hoạt động điều tra trong các trường hợp do Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định. Người chứng kiến có trách nhiệm xác nhận nội dung, kết quả công việc mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã tiến hành trong khi mình có mặt và có thể nêu ý kiến cá nhân. Ý kiến này được ghi vào biên bản. Một số trường hợp phải có 02 người chứng kiến (khoản 1, 2, 4 Điều 195 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015). |
Người không được làm chứng/chứng kiến | Những người không được làm chứng: – Người bào chữa của người bị buộc tội; – Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn. | Những người không được làm người chứng kiến: – Người thân thích của người bị buộc tội, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; – Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức đúng sự việc; – Người dưới 18 tuổi; – Có lý do khác cho thấy người đó không khách quan. |
Cách thức tham gia | Được triệu tập để lấy lời khai trực tiếp hoặc gián tiếp về sự việc | Được mời để quan sát hoạt động tố tụng và xác nhận nội dung biên bản |
Quyền | Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 66 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015:
| Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 67 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015:
|
Nghĩa vụ | Gồm các nghĩa vụ sau:
| Gồm các nghĩa vụ sau:
|
Trách nhiệm pháp lý khi vi phạm | Khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo, trốn tránh việc khai báo mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định (Điều 382 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017). | Người chứng kiến có trách nhiệm xác nhận nội dung, kết quả công việc mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã tiến hành trong khi mình có mặt và có thể nêu ý kiến cá nhân. Ý kiến này được ghi vào biên bản. Và không bị xử lý khi cung cấp sai tài liệu, sự thật hoặc khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo. |
Các trường hợp bắt buộc | Không phải hoạt động tố tụng nào cũng cần người làm chứng, phụ thuộc vào chứng cứ và yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng | Một số hoạt động bắt buộc phải có như: Khám xét, khám nghiệm hiện trường, thu giữ và niêm phong vật chứng, nhận dạng, nhận biết giọng nói |
Tính chủ động khi tham gia | Chủ yếu bị động – chỉ tham gia khi được triệu tập vì có thông tin liên quan vụ án | Bị động – chỉ tham gia khi được mời để chứng kiến hoạt động tố tụng |
Giá trị pháp lý | Lời khai là nguồn chứng cứ quan trọng để làm rõ tình tiết vụ án | Xác nhận trong biên bản là căn cứ để chứng minh hoạt động tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật |
3. Trách nhiệm pháp lý và giá trị chứng cứ của lời khai và việc chứng kiến:
Việc tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng hoặc người chứng kiến không chỉ mang tính nghĩa vụ pháp lý mà còn ảnh hưởng đến tính hợp pháp và giá trị chứng cứ trong vụ án.
3.1. Trách nhiệm pháp lý nếu không thực hiện đúng nghĩa vụ:
- Đối với người làm chứng:
Người làm chứng có nghĩa vụ khai báo trung thực về những gì mình biết, được quy định tại khoản 2 Điều 66 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và Điều 77 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015. Nếu khai báo sai sự thật hoặc cung cấp tài liệu mà biết rõ là giả mạo, họ phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối theo Điều 382 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Cụ thể, người làm chứng thực hiện hành vi khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật có thể bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Nếu hành vi có tình tiết tăng nặng như có tổ chức hoặc dẫn đến việc giải quyết vụ án bị sai lệch, mức hình phạt tăng lên từ 01 đến 03 năm tù. Trường hợp nghiêm trọng hơn, ví dụ hành vi dẫn đến kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm, mức hình phạt có thể lên tới 07 năm tù. Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc hành nghề từ 01 đến 05 năm. Như vậy, người làm chứng không chỉ có nghĩa vụ khai báo trung thực mà còn phải ý thức rõ hậu quả pháp lý nếu vi phạm. Đây là cơ chế nhằm bảo đảm sự thật khách quan trong hoạt động tố tụng và phòng ngừa việc làm sai lệch kết quả giải quyết vụ án.
- Đối với người chứng kiến:
Người chứng kiến phải có mặt theo yêu cầu, chứng kiến đầy đủ hoạt động tố tụng, ký biên bản và giữ bí mật những gì chứng kiến (khoản 4 Điều 67 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015). Nếu vi phạm, họ có thể bị xử phạt hành chính theo quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp. Trường hợp hành vi gây hậu quả nghiêm trọng, làm sai lệch quá trình tố tụng (ví dụ: cố tình không ký biên bản, tiết lộ bí mật điều tra gây ảnh hưởng đến vụ án), họ có thể bị xem xét trách nhiệm hình sự theo các tội danh liên quan đến cản trở hoạt động tố tụng.
3.2. Giá trị chứng cứ của lời khai người làm chứng:
Lời khai của người làm chứng là một trong các nguồn chứng cứ quan trọng được pháp luật ghi nhận. Điều 87 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định lời khai của người làm chứng, cùng với vật chứng, tài liệu và kết luận giám định là căn cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, giá trị chứng cứ của lời khai phụ thuộc vào sự trung thực, khách quan và tính hợp pháp trong quá trình thu thập.
Cơ quan tiến hành tố tụng phải đánh giá lời khai của người làm chứng một cách toàn diện, so sánh với các chứng cứ khác để bảo đảm tính xác thực. Pháp luật cũng quy định trách nhiệm bảo vệ người làm chứng, đặc biệt trong các vụ án hình sự nghiêm trọng, để đảm bảo người làm chứng khai báo tự nguyện, không bị đe dọa hay mua chuộc (Điều 66 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015).
3.3. Vai trò của người chứng kiến đối với tính hợp pháp của hoạt động tố tụng:
Khác với người làm chứng, người chứng kiến không phải là nguồn chứng cứ trực tiếp về nội dung vụ án. Tuy nhiên, sự có mặt của họ lại mang ý nghĩa bảo đảm tính hợp pháp và minh bạch của hoạt động tố tụng. Theo khoản 1 Điều 67 BLTTHS 2015, một số hoạt động như khám xét, thu giữ, niêm phong vật chứng bắt buộc phải có sự chứng kiến của người không liên quan đến vụ án.
Việc thiếu người chứng kiến trong các hoạt động này có thể dẫn đến nguy cơ chứng cứ bị coi là không hợp pháp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến giá trị chứng minh trong vụ án. Chính vì vậy, vai trò của người chứng kiến được đánh giá là một cơ chế kiểm soát quyền lực tố tụng, phòng ngừa vi phạm và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội cũng như những người liên quan.
4. Ý nghĩa của việc phân biệt người làm chứng và người chứng kiến:
Phân biệt giữa người làm chứng và người chứng kiến có ý nghĩa và vai trò sau:
4.1. Bảo đảm tính khách quan, toàn vẹn của hệ thống chứng cứ:
Hệ thống chứng cứ trong một vụ án hình sự giống rất đa dạng và phức tạp. Việc phân biệt hai chủ thể này giúp đảm bảo mỗi mảnh ghép đều đúng vị trí và có giá trị riêng.
- Lời khai của người làm chứng có giá trị cung cấp thêm nội dung cho quá trình giải quyết vụ án (cung cấp thông tin về hành vi phạm tội, hung thủ, nạn nhân…). Giá trị của nó nằm ở sự trung thực và phù hợp với các chứng cứ khác;
- Sự xác nhận của người chứng kiến trong biên bản (ví dụ: biên bản khám xét thu giữ được con dao) có vai trò xác nhận tính khách quan và hợp pháp của cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ án.
Nếu không có người chứng kiến, chứng cứ vật chất do Cơ quan điều tra thu thập có thể bị nghi ngờ về tính khách quan. Sự có mặt người làm chứng sẽ góp phần làm cho hệ thống chứng cứ trở nên vững chắc hơn.
4.2. Góp phần bảo vệ quyền con người và quyền công dân:
Đây là ý nghĩa nhân văn và quan trọng nhất. Người chứng kiến đóng vai trò giám sát đối với hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước.
Khi cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động có khả năng xâm phạm đến các quyền cơ bản của công dân (như quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, quyền bí mật thư tín, điện tín…) thì sự có mặt của người chứng kiến là một cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả.
Người làm chứng đảm bảo rằng:
- Việc khám xét, thu giữ tài sản diễn ra đúng trình tự, không có sự lạm quyền, bức cung, mớm cung;
- Không có hành vi thêm, bớt, đánh tráo hoặc hủy hoại chứng cứ gây bất lợi cho người bị tình nghi;
- Quyền của người bị khám xét được tôn trọng và đảm bảo.
4.3. Xác định rõ ràng trách nhiệm pháp lý giữa các bên:
Việc phân biệt rõ vai trò giúp xác định chính xác trách nhiệm pháp lý của mỗi bên:
- Người làm chứng nếu nói dối sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này buộc họ phải cẩn trọng và có trách nhiệm với lời khai của mình;
- Nngười chứng kiến không có nghĩa vụ phải biết về vụ án. Trách nhiệm của người làm chứng chỉ giới hạn trong việc xác nhận trung thực những gì họ đã thấy trong buổi làm việc đó. Vì thế người làm chứng không phải chịu trách nhiệm về việc chứng cứ đó được sử dụng ra sao.
Sự rạch ròi này giúp tránh việc đổ lỗi hoặc áp đặt trách nhiệm không đúng đối tượng, từ đó làm cho quy trình tố tụng trở nên minh bạch hơn.
5. Người làm chứng có bị dẫn giải tới tòa nếu không có mặt theo giấy triệu tập không?
Khoản 2 Điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định:
Dẫn giải có thể áp dụng đối với:
- Người làm chứng trong trường hợp họ không có mặt theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan;
- Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan;
- Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.
Kết luận: Người làm chứng nếu không có mặt theo giấy triệu tập hợp lệ mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì sẽ bị dẫn giải.
6. Hậu quả pháp lý khi nhầm lẫn giữa người làm chứng và người chứng kiến:
6.1. Ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của chứng cứ thu thập được:
- Nếu cơ quan tiến hành tố tụng mời sai đối tượng hoặc áp dụng nhầm quy định thì chứng cứ thu thập có thể không được công nhận;
- Ví dụ: Hoạt động khám xét bắt buộc phải có người chứng kiến nhưng lại chỉ mời một người làm chứng đến thì Biên bản khám xét có thể bị coi là vi phạm thủ tục và bị loại khỏi hồ sơ.
6.2. Nguy cơ bị hủy bỏ, không công nhận biên bản, tài liệu:
- Các hoạt động tố tụng vi phạm nghiêm trọng về thủ tục như thiếu người chứng kiến khi luật bắt buộc… thì sẽ dẫn đến việc biên bản, tài liệu bị tuyên không hợp pháp và phải tiến hành lại;
- Từ đó gây tốn kém thời gian, chi phí và ảnh hưởng tiến độ giải quyết vụ án.
6.3. Trách nhiệm pháp lý của điều tra viên, kiểm sát viên hoặc cơ quan tiến hành tố tụng:
- Theo Điều 371 và 372 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, điều tra viên hoặc kiểm sát viên vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng có thể bị xử lý kỷ luật, thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi gây hậu quả nghiêm trọng;
- Trường hợp cố ý không mời người chứng kiến khi pháp luật bắt buộc thì có thể bị xem là làm sai lệch hồ sơ vụ án theo quy định của pháp luật do không đảm bảo tính khách quan.
7. Kinh nghiệm thực tiễn trong việc xác định và mời đúng đối tượng:
7.1. Cách xác định người phù hợp để làm chứng:
- Chọn người biết rõ tình tiết vụ án nhưng không có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án đó;
- Ưu tiên người có khả năng khai báo mạch lạc, rõ ràng và đáng tin cậy;
- Kiểm tra độ tuổi và năng lực hành vi để đảm bảo lời khai hợp pháp.
7.2. Cách lựa chọn và mời người chứng kiến đúng quy định:
- Người chứng kiến phải khách quan, độc lập và hoàn toàn không liên quan đến vụ án;
- Nên mời ít nhất 02 người chứng kiến để tăng tính khách quan, nhất là trong các hoạt động bắt buộc như khám xét, niêm phong, mở niêm phong…;
- Giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của người chứng kiến trước khi tiến hành hoạt động tố tụng.
7.3. Lưu ý khi lập biên bản để đảm bảo chứng cứ hợp pháp
- Ghi đầy đủ thông tin cá nhân của người làm chứng hoặc người chứng kiến: họ tên, ngày sinh, địa chỉ, số căn cước công dân…;
- Nội dung biên bản phải thể hiện rõ vai trò của họ (làm chứng hay chứng kiến);
- Đảm bảo người tham gia ký đầy đủ vào biên bản ngay sau khi hoạt động kết thúc.
7.4. Vai trò của luật sư trong việc giám sát quy trình có người làm chứng và người chứng kiến:
Luật sư tham gia tố tụng có thể:
- Yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng mời đúng đối tượng theo luật định;
- Giám sát quá trình lấy lời khai hoặc chứng kiến để đảm bảo tính hợp pháp;
- Kiến nghị hủy bỏ chứng cứ hoặc biên bản nếu phát hiện vi phạm thủ tục liên quan đến nhân chứng.
THAM KHẢO THÊM: