Biện pháp bảo vệ trong tố tụng hình sự? Các biện pháp bảo vệ trong tố tụng hình sự? Quy định của pháp luật về yêu cầu đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ? Quy định của pháp luật về quyết định áp dụng các biện pháp bảo vệ? Quy định của pháp luật về chấm dứt biện pháp bảo vệ?
Theo quy định của pháp luật, mọi công dân đều có quyền được Nhà nước bảo vệ tránh các nguy cơ bị xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong các vụ án hình sự có những chủ thể là người đưa ra lời khai hoặc cung cấp các thông tin, kết luận khoa học về những vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án, góp phần làm sáng tỏ sự thật và giải quyết đúng đắn vụ án. Vì vậy họ có nguy cơ bị người phạm tội hoặc thân nhân của người phạm tội đe dọa, gây thiệt hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp nhằm gây cản trở cho việc điều tra hoặc trả thù. Chính vì vậy, việc bảo vệ họ được Nhà nước quan tâm và có những quy định cụ thể. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ giúp người đọc tìm hiểu về những đối tượng được bảo vệ và các biện pháp bảo vệ trong tố tụng hình sự chi tiết nhất.
1. Người được bảo vệ trong tố tụng hình sự.
Theo Điều 484 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về: Người được bảo vệ có nội dung như sau:
“1. Những người được bảo vệ gồm:
a) Người tố giác tội phạm;
b) Người làm chứng;
c) Bị hại;
d) Người thân thích của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại.
2. Người được bảo vệ có quyền:
a) Đề nghị được bảo vệ;
b) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ;
c) Được biết về việc áp dụng biện pháp bảo vệ; đề nghị thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp bảo vệ;
d) Được bồi thường thiệt hại, khôi phục danh dự, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp trong thời gian bảo vệ.
3. Người được bảo vệ có nghĩa vụ:
a) Chấp hành nghiêm chỉnh các yêu cầu của cơ quan bảo vệ liên quan đến việc bảo vệ;
b) Giữ bí mật thông tin bảo vệ;
c) Thông báo kịp thời đến cơ quan có trách nhiệm bảo vệ về những vấn đề nghi vấn trong thời gian được bảo vệ.”
Như vậy, nhân chứng, người tố giác và những người tham gia tố tụng khác và thân thích của họ là những đối tượng được xác định có nguy cơ bị người phạm tội hoặc thân nhân của người phạm tội đe dọa, gây thiệt hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp nhằm gây cản trở cho việc điều tra hoặc có các hành vi trả thù.
Chính vì vậy, để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người làm chứng, người tố giác và những người tham gia tố tụng khác trọng các vụ án hình sự và nhằm thu thập được đầy đủ chứng cứ chứng minh từ những người này, các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp bảo vệ nhằm tạo điều kiện cho họ tham gia cung cấp các thông tin đầy đủ chính xác, không bị ràng buộc bởi bất cứ sự đe dọa, mua chuộc, khống chế nào và đảm bảo cho sự an toàn về sức khỏe, tính mạng và tài sản của họ.
Việc thực hiện các biện pháp bảo vệ đối với người làm chứng, người tố giác và những người tham gia tố tụng khác có hiệu quả lớn như sau:
– Giảm thiểu những nguy cơ bị trả thù hoặc đe dọa có thể xảy ra đối với họ.
– Thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
– Góp phần tạo lập và củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân vào Nhà nước, trước hết là vào các cơ quan bảo vệ pháp luật từ đó khuyến khích quần chúng nhân dân tham gia ngày càng tích cực hơn vào cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
2. Các biện pháp bảo vệ trong tố tụng hình sự.
Ngày nay, có rất nhiều trường hợp nhân chứng trong các vụ án hình sự bị mua chuộc, khống chế, bị đe dọa, trả thù… song việc bảo vệ người làm chứng, người tố giác và những người tham gia tố tụng khác có nguy cơ bị đe dọa gây thiệt hại không kịp thời và chưa theo một quy trình thống nhất tù đó để xảy ra hậu quả đáng tiếc, khi xảy ra hậu quả cơ quan có thẩm quyền mới can thiệp. Chính vì thế, các biện pháp bảo vệ đối với các đối tượng cần bảo vệ có ý nghĩa hết ức quan trọng. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã có những quy định chi tiết về các biện pháp bảo vệ đối với người làm chứng, người tố giác, những người tham gia tố tụng khác và nhân thân của họ.
Theo Điều 486 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về các biện pháp bảo vệ có nội dung như sau:
“1. Khi có căn cứ xác định tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại do việc cung cấp chứng cứ, tài liệu, thông tin liên quan đến tội phạm thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định áp dụng những biện pháp sau đây để bảo vệ họ:
a) Bố trí lực lượng, tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và các phương tiện khác để canh gác, bảo vệ;
b) Hạn chế việc đi lại, tiếp xúc của người được bảo vệ để bảo đảm an toàn cho họ;
c) Giữ bí mật và yêu cầu người khác giữ bí mật các thông tin liên quan đến người được bảo vệ;
d) Di chuyển, giữ bí mật chỗ ở, nơi làm việc, học tập; thay đổi tung tích, lý lịch, đặc điểm nhân dạng của người được bảo vệ, nếu được họ đồng ý;
đ) Răn đe, cảnh cáo, vô hiệu hóa các hành vi xâm hại người được bảo vệ; ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi xâm hại theo quy định của pháp luật;
e) Các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật.
2. Việc áp dụng, thay đổi các biện pháp bảo vệ quy định tại khoản 1 Điều này không được làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo vệ.”
3. Quy định của pháp luật về yêu cầu đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ.
Theo khoản 1, khoản 2, điều 487 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định về đề nghị, yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ người tham gia tố tụng có nội dung như sau:
“1. Người được bảo vệ có quyền làm văn bản đề nghị, yêu cầu cơ quan có thẩm quyển áp dụng biện pháp bào vệ. Văn bản đề nghị, yêu cầu có các nội dung chính:
a) Ngày, tháng, năm;
b) Tên, địa chỉ của người đề nghị;
c) Lý do và nội dung đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ;
d) Chữ ký hoặc điểm chỉ của người đề nghị. Trường hợp đề nghị của cơ quan, tổ chức thì người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó ký tên và đóng dấu
2. Trường hợp khẩn cấp, người được bảo vệ trực tiếp đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ hoặc thông qua phương tiện thông tin liên lạc nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản đề nghị. Cơ quan, người có thẩm quyền nhận được đề nghị, yêu câu phải lập biên bản và đưa vào hồ sơ bảo vệ.”
Như vậy, yêu cầu được bảo vệ trong tố tụng hình sự khi tính mạng, súc khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại do việc cung cấp chứng cứ, tài liệu, thông tin liên quan đến tội phạm là quyền của người tổ giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tổ tụng khác. Chính vì vậy, việc bảo vệ những người này chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của họ thể hiện thông qua các hình thức như đơn yêu cầu.
Đối với trường hợp khẩn cấp, người được bảo vệ cần trực tiếp đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp bào vệ hoặc thông qua phương tiện thông tin liên lạc nhưng sau đó phải thể hiện qua văn bản đề nghị. Cơ quan, người có thẩm quyên nhận được đề nghị, yêu cầu phải lập biên bản và đưa vào hồ sơ bảo vệ.
4. Quy định của pháp luật về quyết định áp dụng các biện pháp bảo vệ.
Theo Điều 488 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 về quyết định áp dụng các biện pháp bảo vệ người tham gia tố tụng hình sự có nội dung như sau:
“1. Quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ gồm các nội dung chính:
a) Sổ, ngày, tháng, năm; địa điểm ra quyết định;
b) Chức vụ của người ra quyết định;
c) Căn cứ ra quyết định;
d) Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người được bảo vệ;
đ) Biện pháp bảo vệ và thời gian bắt đầu thực hiện biện pháp bảo vệ.
2. Quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ được gửi cho người yêu cầu bảo vệ, người được bảo vệ, Viện kiểm sát, Tòa án đã đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ và cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan đến việc bảo vệ.”
Như vậy, theo quy định của pháp luật, việc áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng bị hại và những người tham gia tố tụng khác khi những người này hoặc người thân của họ bị xâm phạm hay bị đe dọa xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản danh dự, nhân phẩm được thể hiện bằng Quyết định áp dụng biện pháp bào vệ.
Quyết định này tuân thủ quy định tại Điều luật này về hình thức đặc biệt phải ghi rõ biện pháp bảo vệ sẽ áp dụng và và thời gian bắt đầu thực hiện biện pháp bào vệ.
Ngoài ra, quyết định này cũng được gửi cho người yêu cầu bào vệ, người được bào vệ, Viện kiểm sát, Tòa án đã đê nghị áp dụng biện pháp bảo vệ và cơ quan, tô chức, đơn vị liên quan đến việc bảo vệ.
Sau khi ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ, Cơ quan điều tra có thẩm quyền áp dụng phải tổ chức thực hiện ngay biện pháp bảo vệ.
Tong trường hợp cần thiết có thể phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân để thực hiện việc bảo vệ. Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng cố thể thay đổi, bổ sung biện pháp bảo vệ trong quá trình bảo vệ nếu xét thấy cân thiết. Thời gian bảo vệ được tính từ khi áp dụng biện pháp bảo vệ cho đến khi có quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ.
5. Quy định của pháp luật về chấm dứt biện pháp bảo vệ.
Theo Điều 489, Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 về chấm dứt bảo vệ, quy định nội dung như sau:
“Khi xét thấy cần cứ xâm hại hoặc đe dọa xâm hại tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ không còn, Thù trưởng Cơ quan điều tra đã quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ phải ra quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ.
Quyết định chẩm dứt áp dụng các biện pháp bảo vệ phải được gửi cho người được bảo vệ, cơ quan đã đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ và cơ quàn, tô chức, đơn vị liên quan đến việc bào vệ.”
Như vậy, chấm dứt việc bảo vệ là việc Thủ trưởng cờ quan điều tra quyết định không tiếp tục áp dụng biện pháp bảo vệ đối với người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại, người tham gia to tụng khác hoặc những người thân của họ
Theo quy định của pháp luật chấm dứt việc bảo vệ được thực hiện khi Thủ trưởng cơ quan Điều tra xét thấy căn cứ xâm hại hoặc đe dọa xâm hại tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ không côn.
Ngoài ra, quyết định chấm dứt áp dụng các biện pháp bảo vệ phải được gửi cho người được bảo vệ, cơ quan đã đề nghị áp dụng biện pháp bào vệ và cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan đến việc bảo vệ.
Điều luật này không quy định quyền được tiếp tục yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ của những người được bảo vệ khi Thủ trưởng cơ quan Điều tra hủy bỏ quyết định áp dụng các biện pháp bảo vệ.