Việc từ bỏ quyền nuôi con là vấn đề pháp lý nhạy cảm, chỉ được xem xét trong những điều kiện nhất định và phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền lợi tốt nhất cho trẻ. Bài viết này cung cấp mẫu đơn xin từ bỏ quyền nuôi con và hướng dẫn chi tiết cách viết mẫu đơn này.
Mục lục bài viết
1. Mẫu đơn xin từ bỏ quyền nuôi con được viết như thế nào?
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
…, ngày … tháng … năm …
ĐƠN YÊU CẦU
Về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn
Kính gửi: TÒA ÁN NHÂN DÂN ……
Người yêu cầu:
Họ và tên: …
Ngày, tháng, năm sinh: …
Số CCCD/Căn cước/ Hộ chiếu: … cấp ngày … nơi cấp …
Địa chỉ thường trú: …
Số điện thoại: …
Thông tin về người trực tiếp nuôi con hiện tại (nếu không phải người yêu cầu):
Họ và tên: …
Ngày, tháng, năm sinh: …
Số CCCD/ Căn cước/ Hộ chiếu: … cấp ngày … nơi cấp …
Địa chỉ thường trú: …
Số điện thoại: …
Thông tin về con chung:
Họ và tên: …, sinh ngày …
Họ và tên: …, sinh ngày … (nếu có nhiều con ghi đầy đủ)
Căn cứ pháp lý:
- Khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con;
- Các quy định về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ đối với con sau ly hôn tại Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Điều 27, Điều 362, Điều 363 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về thủ tục giải quyết yêu cầu dân sự.
Nội dung yêu cầu: Tôi và ông/bà … (tên người đang trực tiếp nuôi con hoặc người còn lại) đã ly hôn theo Bản án/Quyết định số … ngày … tháng … năm … của Tòa án nhân dân …(tên Tòa án)… Trong quyết định đó, tôi là người được trực tiếp nuôi dưỡng con chung (hoặc người còn lại là người trực tiếp nuôi dưỡng con).
Hiện nay, do …(trình bày lý do chính đáng: sức khỏe suy giảm, điều kiện công việc thay đổi, hoàn cảnh gia đình khó khăn, môi trường sống không còn bảo đảm…)… tôi không còn đủ điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con một cách tốt nhất.
Vì lợi ích mọi mặt của con, tôi kính đề nghị Tòa án xem xét:
- Thay đổi người trực tiếp nuôi con từ tôi sang ông/bà …(họ tên)… hoặc từ ông/bà …(họ tên)… sang tôi (nếu bạn là người muốn nhận nuôi);
- Ghi nhận sự thỏa thuận (nếu có) giữa hai bên về nghĩa vụ cấp dưỡng, quyền và nghĩa vụ thăm nom sau khi thay đổi.
Lý do và căn cứ cụ thể:
- Trình bày chi tiết các yếu tố: môi trường sống, điều kiện vật chất, điều kiện tinh thần, khả năng bảo đảm quyền học tập, y tế, sự ổn định tâm lý…;
- Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên, trình bày nguyện vọng của con (kèm bản ghi ý kiến hoặc biên bản lấy lời khai của con);
- Đính kèm tài liệu chứng minh lý do yêu cầu thay đổi là hợp pháp, chính đáng.
Danh mục tài liệu, chứng cứ kèm theo:
- Bản án/Quyết định ly hôn số … ngày … tháng … năm …;
- Giấy khai sinh của con chung (bản sao chứng thực);
- CMND/CCCD của tôi và của người liên quan (bản sao chứng thực);
- Các tài liệu chứng minh lý do thay đổi người nuôi con (giấy tờ y tế, xác nhận thu nhập, xác nhận nơi cư trú, đơn xin ý kiến của con…);
- Các tài liệu khác có liên quan.
Cam đoan:
Tôi cam đoan những thông tin và tài liệu nêu trên là đúng sự thật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời khai của mình.
Kính đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết theo quy định pháp luật.
Người yêu cầu
(Ký và ghi rõ họ tên)
2. Hướng dẫn cách viết đơn xin từ bỏ quyền nuôi con:
2.1. Chọn đúng “loại đơn” và cách định danh nội dung yêu cầu:
Về bản chất pháp lý, “từ bỏ quyền nuôi con” phải được thể hiện dưới dạng đơn khởi kiện (nếu có tranh chấp) hoặc đơn yêu cầu (nếu hai bên thống nhất) về thay đổi người trực tiếp nuôi con. Nếu có tranh chấp, đây là vụ án thuộc điểm 3 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn) nên bạn phải sử dụng đơn khởi kiện theo Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nếu hai bên đã thỏa thuận rõ ràng, có thể nộp đơn yêu cầu công nhận việc thay đổi theo thủ tục giải quyết việc dân sự, khi đó, nội dung và hình thức của đơn tuân theo khoản 2 Điều 362 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự) và trình tự thụ lý theo Điều 363 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Trường hợp nộp đơn qua bưu chính hoặc trực tuyến, việc nộp được pháp luật tố tụng thừa nhận (Điều 190 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Trong mọi trường hợp, không dùng cụm từ “từ bỏ toàn bộ quyền và nghĩa vụ với con” mà phải diễn đạt là “đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con” theo khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
2.2. Bố cục và nội dung bắt buộc của đơn:
Nếu là đơn khởi kiện, bảo đảm đủ các mục theo khoản 4 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (điểm a đến i): ngày, tháng, năm; tên Tòa án; thông tin người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nội dung yêu cầu Tòa án giải quyết; lý do, căn cứ; họ tên người làm chứng (nếu có); danh mục tài liệu chứng cứ kèm theo. Cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ theo khoản 2 Điều 189.
Nếu là đơn yêu cầu, trình bày đủ các nội dung theo khoản 2 Điều 362 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: ngày, tháng, năm; Tòa án có thẩm quyền; người yêu cầu; nội dung yêu cầu công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con; lý do và căn cứ pháp lý; danh mục tài liệu, chứng cứ; chữ ký của người yêu cầu.
Trong phần cơ sở pháp lý, dẫn đúng các căn cứ trọng tâm: (i) khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (điều kiện để thay đổi người trực tiếp nuôi con: thỏa thuận phù hợp lợi ích của con hoặc người đang nuôi không còn đủ điều kiện); (ii) khoản 2, khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (sau khi thay đổi, nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền thăm nom vẫn tồn tại); (iii) khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (quyền lợi mọi mặt của con là chuẩn mực; con từ đủ 07 tuổi phải xem xét nguyện vọng; trẻ dưới 36 tháng tuổi thường giao cho mẹ trừ trường hợp đặc biệt).
2.3. Cách trình bày “lý do chính đáng” và chứng cứ kèm theo:
Phần “lý do” phải tuân theo quy định tại khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Có hai hướng lập luận: (i) Hai bên thỏa thuận thay đổi và thỏa thuận này bảo đảm lợi ích của con; hoặc (ii) Người đang trực tiếp nuôi không còn đủ điều kiện trông nom, chăm sóc, giáo dục. Tránh diễn đạt cảm tính; thay vào đó, mô tả môi trường sống, học tập, y tế, trông nom hằng ngày, an toàn thân thể và tâm lý của trẻ trước và sau khi thay đổi.
Về chứng cứ, bạn có nghĩa vụ chứng minh theo khoản 1 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; tài liệu phải thuộc nguồn chứng cứ hợp pháp theo Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và đáp ứng điều kiện xác định chứng cứ theo Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (bản chính/bản sao chứng thực; dữ liệu điện tử kèm trình bày xuất xứ; lời khai, biên bản thẩm định, kết quả định giá…). Ví dụ:
- Giấy tờ nơi ở hợp pháp hoặc xác nhận cư trú;
- Xác nhận thu nhập/hỗ trợ tài chính;
- Hồ sơ học tập, y tế của trẻ;
- Kết luận của cơ quan có thẩm quyền về bạo lực gia đình (nếu có);
- Văn bản thỏa thuận của hai bên kèm kế hoạch nuôi dưỡng cụ thể.
Với trẻ từ đủ 07 tuổi, cần chuẩn bị để Tòa án lấy ý kiến theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (bản ghi ý kiến, biên bản làm việc…).
2.4. Diễn đạt đúng về cấp dưỡng và thăm nom:
Dù thay đổi người trực tiếp nuôi, nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền thăm nom không bị loại bỏ bởi đây là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc theo khoản 2 và khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Trong đơn, cần đề xuất rõ: mức, phương thức, kỳ hạn cấp dưỡng; cách thức, tần suất thăm nom; cơ chế phối hợp trao đổi thông tin học tập – sức khỏe của trẻ. Những nội dung này cho thấy việc thay đổi người trực tiếp nuôi con là toàn diện và khả thi, đồng thời giúp Tòa có cơ sở công nhận hoặc quyết định.
2.5. Ngôn ngữ, hình thức và cách ký nộp:
Ngôn ngữ phải khách quan, mạch lạc, không dùng từ ngữ “từ bỏ tất cả quyền và nghĩa vụ” vì trái với Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Bố cục đơn cần theo chuẩn có đầy đủ thông tin sau:
- Quốc hiệu;
- Tên đơn;
- Tòa án có thẩm quyền;
- Thông tin các bên;
- Con chung;
- Nội dung yêu cầu;
- Lý do – căn cứ;
- Danh mục chứng cứ;
- Chữ ký/điểm chỉ.
Đơn phải ký tay của người làm đơn theo khoản 2 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (đối với đơn khởi kiện); với đơn yêu cầu, vẫn bảo đảm chữ ký của người yêu cầu theo khoản 2 Điều 362 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Có thể nộp trực tiếp, qua bưu chính hoặc trực tuyến (Điều 190 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
Nếu ủy quyền cho luật sư/đại diện nộp đơn, văn bản ủy quyền phải đúng hình thức, công chứng/chứng thực phù hợp Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Công chứng năm 2024. Tuy nhiên, ý chí về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con vẫn nên do chính đương sự trực tiếp thể hiện trước Tòa để bảo đảm tính tự nguyện, minh bạch.
3. Một số các quy định về từ bỏ quyền nuôi con:
3.1. Nguyên tắc pháp lý chung về quyền nuôi con sau ly hôn:
Theo Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, khi cha mẹ ly hôn, Tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Luật khẳng định nguyên tắc: quyền, nghĩa vụ nuôi con không phải là một điều mà có thể “tự nguyện từ bỏ” mà là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản tự nuôi mình.
Như vậy, cụm từ “từ bỏ quyền nuôi con” trong ngôn ngữ pháp lý không đồng nghĩa với việc chấm dứt toàn bộ quyền và nghĩa vụ làm cha, mẹ. Người cha hoặc mẹ có thể đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con nhưng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng và các quyền gắn liền với quan hệ cha – mẹ – con theo luật.
3.2. Điều kiện thay đổi người trực tiếp nuôi con:
Căn cứ khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án chỉ chấp nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con trong hai trường hợp:
- Thứ nhất, cha mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi và thỏa thuận này bảo đảm lợi ích của con. Điều này có nghĩa là nếu một bên muốn “từ bỏ” quyền nuôi con, họ phải có sự đồng thuận với bên còn lại và thỏa thuận này phải được Tòa án công nhận;
- Thứ hai, người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện để tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Điều kiện này cần được chứng minh bằng các yếu tố khách quan như sức khỏe suy giảm, điều kiện tài chính, môi trường sống không bảo đảm, hoặc có hành vi bạo lực, ngược đãi con.
Như vậy, không có cơ chế pháp luật nào cho phép một bên đơn phương “tuyên bố từ bỏ” quyền nuôi con nếu không đáp ứng điều kiện nêu trên và không có quyết định của Tòa án.
3.3. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể từ bỏ:
Theo khoản 2 và khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ chấm dứt khi con đã thành niên và có khả năng tự nuôi mình hoặc rơi vào trường hợp đặc biệt theo luật định.
Điều này có nghĩa là, ngay cả khi cha hoặc mẹ không còn trực tiếp nuôi con, họ không thể thoái thác nghĩa vụ tài chính và trách nhiệm đạo đức đối với con. Việc “từ bỏ quyền nuôi con” chỉ dừng lại ở việc không trực tiếp chăm sóc, còn trách nhiệm cấp dưỡng và thăm nom vẫn tiếp tục duy trì.
3.4. Quyền thăm nom và bảo vệ lợi ích của trẻ:
Theo Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, người không trực tiếp nuôi con vẫn có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp việc thăm nom ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của con, Tòa án có thể hạn chế quyền thăm nom. Như vậy, pháp luật không công nhận việc cha hoặc mẹ “tự nguyện” từ bỏ quyền tiếp xúc, thăm nom, mà chỉ trong trường hợp có căn cứ bảo vệ lợi ích của trẻ thì Tòa án mới hạn chế quyền này.
3.5. Trình tự thủ tục tố tụng liên quan:
Về mặt thủ tục, yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết theo Điều 27 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (yêu cầu công nhận thay đổi nuôi con) hoặc theo Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con).
- Nếu các bên đồng thuận, đây là việc dân sự, trình tự nộp đơn và giải quyết được áp dụng theo Điều 362 và Điều 363 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Nếu có tranh chấp, đây là vụ án dân sự, đơn phải lập theo quy định tại Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, kèm chứng cứ chứng minh căn cứ thay đổi.
3.6. Quan điểm bảo vệ quyền trẻ em:
Ngoài quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, nguyên tắc bảo vệ lợi ích tốt nhất của trẻ em cũng được khẳng định tại Điều 37 Hiến pháp năm 2013 và Điều 5 Luật Trẻ em năm 2016. Pháp luật Việt Nam tuân thủ Công ước quốc tế về quyền trẻ em, theo đó, mọi quyết định liên quan đến trẻ em (bao gồm việc thay đổi quyền nuôi con) đều phải đặt lợi ích của trẻ lên hàng đầu.
Điều này có nghĩa là: Cha hoặc mẹ muốn “từ bỏ quyền nuôi con” cũng không thể lấy lý do hoàn cảnh cá nhân để từ chối trách nhiệm, mà phải chứng minh được giải pháp thay thế đảm bảo cuộc sống, học tập và phát triển của trẻ.
THAM KHẢO THÊM: