Skip to content
 1900.6568

Trụ sở chính: Số 89, phố Tô Vĩnh Diện, phường Khương Đình, thành phố Hà Nội

  • DMCA.com Protection Status
Home

  • Trang chủ
  • Về Luật Dương Gia
  • Lãnh đạo công ty
  • Đội ngũ Luật sư
  • Chi nhánh 3 miền
    • Trụ sở chính tại Hà Nội
    • Chi nhánh tại Đà Nẵng
    • Chi nhánh tại TPHCM
  • Pháp luật
  • Văn bản
  • Giáo dục
  • Bạn cần biết
  • Liên hệ Luật sư
    • Luật sư gọi lại tư vấn
    • Chat Zalo
    • Chat Facebook

Home

Đóng thanh tìm kiếm

  • Trang chủ
  • Đặt câu hỏi
  • Đặt lịch hẹn
  • Gửi báo giá
  • 1900.6568
Trang chủ Pháp luật Luật dân sự

Lịch sử pháp luật về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất

  • 26/05/202426/05/2024
  • bởi Luật sư Nguyễn Văn Dương
  • Luật sư Nguyễn Văn Dương
    26/05/2024
    Theo dõi chúng tôi trên Google News

    Pháp luật có liên quan đến quyền thế chấp quyền sử dụng đất thông qua hình thức hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, pháp luật đã quy định cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử với các nội dung chi tiết.

      Thứ nhất, Khoản 2 Điều 3 LĐĐ năm 1993 quy định: “Người sử dụng đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp QSDĐ”. Đến năm 2001, LĐĐ bổ sung thêm hai quyền nữa cho NSDĐ, đó là: bảo lãnh, góp vốn bằng QSDĐ.

      Thứ hai, LĐĐ năm 2003 kế thừa các nội dung trên, quy định tại Điều 106: “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất… khi có các điều kiện sau đây:

      (i) Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

      (ii) Đất không có tranh chấp;

      (ii) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

      (iv) Trong thời hạn sử dụng đất.”

      Nghĩa là, để thế chấp tài sản là QSDĐ để thực hiện quyền của NSDĐ trong các giao dịch dân sự thì phải thỏa mãn một số điều kiện theo quy định pháp luật.

      Tuy nhiên, tại Khoản 1 Điều 31 Nghị định 87/2007/NĐ- CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ Quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai, lại quy định:

      “1. Bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai được hiểu là thế chấp bằng quyền sử dụng đất cho người thứ ba vay vốn theo quy định của Bộ luật Dân sự (sau đây gọi chung là thế chấp bằng quyền sử dụng đất).

      Và rõ ràng là, nội dung này đã trái với quy định của BLDS năm 2005, và cả LĐĐ năm 2003.

      Thứ tư, khoản 1 Điều 167 LĐĐ năm 2013 quy định: “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này”.

      Điều này có nghĩa là, NSDĐ không có quyền bảo lãnh bằng QSDĐ hợp pháp của mình để thực hiện trong các giao dịch dân sự. Việc không quy định quyền bảo lãnh bằng QSDĐ hợp pháp của NSDĐ đã hạn chế quyền của NSDĐ so với các quy định trước đây, mà theo lẽ thông thường, các quyền này cần được mở rộng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển. Có lẽ thông qua phản ảnh của các kênh truyền thông, đặc biệt là báo chí, tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 09/2016/TTLT-BTP- BTNMT ngày 23/6/2016 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên Môi trường Hướng dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, đã quy định:

      “Điều 4. Các trường hợp đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất

      1. Các trường hợp đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất bao gồm:

      2. Việc đăng ký thế chấp quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 1 Điều này bao gồm các trường hợp đăng ký thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của bên thế chấp hoặc của người khác”.

      Xung quanh nội dung trên, theo tác giả, có mấy vấn đề đặt ra như sau:

      Một là, cho dù có sự thay đổi về cách sắp xếp, trật tự câu chữ, song cả hai Điều 361 BLDS năm 2005 và Điều 335 BLDS năm 2015 đều quy định: “Bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ..”.

      Đương nhiên “bảo lãnh” khác với “thế chấp” cho dù cùng là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong giao dịch dân sự cụ thể. Nếu như “bảo lãnh” nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thay cho người khác thì “thế chấp” nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của chính mình.

      Việc quy định nội dung trên tại Điều 31 NĐ 87/2007/NĐ-CP cũng như tại Thông tư liên tịch 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT là trái với nguyên tắc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, là phải bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.

      Hai là, từ Hiến pháp năm 1980, đến 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và hiện nay là Hiến pháp năm 2013 đều khẳng định tại Điều 4: “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Do vậy, chủ trương, chính sách của Đảng quyết định đến nội dung pháp luật của Nhà nước sẽ ban hành.

      Trước khi Quốc hội thông qua LĐĐ năm 2013, tại Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ngày 31/10/2012 đã ban hành Nghị quyết 19; trong đó có một số nội dung quan trọng như sau:

      (i) Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hoá đặc biệt, nhưng không phải là quyền sở hữu, được xác định cụ thể phù hợp với từng loại đất, từng đối tượng và hình thức giao đất, cho thuê đất.

      (ii) Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn và có các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, tùy theo từng loại đất và nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật”.

      Nội dung (i) đã được quy định tại Điều 54 Hiến pháp năm 2013:

      “Điều 54:

      1. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật.

      2. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ.”.

      Tuy nhiên, chỉ ghi nhận “Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ”, chứ không phải là “Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hoá đặc biệt” như trong Nghị quyết 19 đã xác định. Còn đối với nội dung (ii) được quy định đầy đủ trong Điều 167 LĐĐ năm 2013, và dẫn đến là so với LĐĐ năm 2003 đã thiếu đi quyền “bảo lãnh” của NSDĐ như đã trình bày.

      Ba là, cần nhìn nhận rằng, việc trao quyền bảo lãnh cho NSDĐ trong việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ nhằm đáp ứng vốn trong sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Chắc rằng điều này sẽ không làm ảnh hưởng gì đến trật tự công mà Nhà nước cần thiết phải bảo vệ. Điều đó được thể hiện qua thực tiễn áp dụng pháp luật từ năm 2003 đến nay. Như vậy, theo tác giả, việc “bỏ sót” biện pháp “bảo lãnh” của NSDĐ trong Nghị quyết 19 mang tính “lỗi kỹ thuật”, và cũng có thể do các nhà tham mưu chính sách cho rằng, cứ hướng dẫn như Điều 31 của Nghị định 87/2007/NĐ- CP là “ổn”, không cần thiết phải phải ghi nhận trong Luật.

      Thiết nghĩ, “bảo lãnh” là một trong những quyền quan trọng của NSDĐ, cần thiết phải được điều chỉnh, bổ trong pháp luật thực định, cụ thể là trong LĐĐ chứ không phải mang tính “giật gấu vá vai” như quy định trong Điều 4 của TTLT 09/2016/TTLT-BTP-BNV.

      Bốn là, một trong những nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; đó là phải: “Bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật” như đã trình bày.

      Rõ ràng là, nội dung Điều 31 Nghị định 87/2007/NĐ-CP hoặc Điều 4 Thông tư liên tịch 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT:

      “Bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai được hiểu là thế chấp bằng quyền sử dụng đất cho người thứ ba vay vốn theo quy định của Bộ luật Dân sự.”; hoặc: “Việc đăng ký thế chấp quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 1 Điều này bao gồm các trường hợp đăng ký thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của bên thế chấp hoặc của người khác.” chỉ là sự “đánh đồng khái niệm”, trong “thế chấp” đã bao hàm cả “bảo lãnh”, và đương nhiên quy định này trái với nội dung trong BLDS được coi như là “Hiến pháp của luật tư”, trái với nguyên tắc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và LĐĐ năm 2013.

      Mặc dù không “hợp pháp”, nhưng quy định trong Điều 4 Thông tư liên tịch 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT là “hợp lý”, kịp thời giải quyết nhu cầu của NSDĐ nên dù biết vậy, song dư luận xã hội vẫn đồng tình, không phản ứng.

      Năm là, Khoản 2 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.”. Như vậy, trong trường hợp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có nghĩa vụ “bảo lãnh” bị một bên hay các bên trong quan hệ pháp luật này đề nghị giải quyết tranh chấp do nội dung hợp đồng trái pháp luật thì có thể bị Tòa tuyên hợp đồng vô hiệu. Rõ ràng trong trường hợp này không phải do lỗi của các bên, mà chính do việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái LĐĐ năm 2013 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2018) của liên Bộ: Tư pháp – Tài nguyên và Môi trường.

      Trên cơ sở đó, tác giả đề nghị bổ sung nội dung “bảo lãnh” vào Điều 167 LĐĐ năm 2013 (đã được sửa đổi, bổ 2018). Sau khi bổ sung, Điều 167 LĐĐ năm 2013 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2018) có nội dung là:

      “Điều 167. Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn quyền sử dụng đất

      1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này…”

      Đồng thời đề nghị bổ sung nội dung của LĐĐ năm 2013 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2018) có liên quan đến quyền của NSDĐ, của Thông tư liên tịch số 09/2016/TTLT-BTP- BTNMT sao cho phù hợp.

      Tóm lại, việc tách bạch làm rõ nội dung hợp đồng thế chấp, không “đánh đồng” khái niệm như đã trình bày, phân tích là cần thiết, nhằm đảm bảo quyền của NSDĐ, làm pháp luật đất đai tương thích với pháp luật dân sự nói riêng và cả hệ thống pháp luật nước ta. Hy vọng rằng những kiến giải nêu trên sẽ được các nhà lập pháp tiếp thu, sửa đổi bổ nhằm đảm bảo yêu cầu pháp chế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

      Duong Gia Facebook Duong Gia Tiktok Duong Gia Youtube Duong Gia Google

        Liên hệ với Luật sư để được hỗ trợ:

      •   Tư vấn pháp luật qua Email
         Tư vấn nhanh với Luật sư
      -
      CÙNG CHUYÊN MỤC
      • Mượn tài sản người khác mà không trả có bị phạt tù không?
      • Hứa mua hứa bán là gì? Mẫu hợp đồng hứa mua hứa bán?
      • Bố mẹ tặng cho, sang tên sổ đỏ cho con có lấy lại được không?
      • Các loại vi phạm pháp luật? Trách nhiệm pháp lý thế nào?
      • Thời điểm giao kết hợp đồng là gì? Xác định thời điểm giao kết?
      • Bố mất sang tên sổ đỏ cho mẹ có được không? Thủ tục thế nào?
      • Trách nhiệm khi hứa thưởng nhưng không thực hiện lời hứa?
      • Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại
      • Các dạng tranh chấp về pháp luật thừa kế? Lấy ví dụ minh họa?
      • Phân biệt thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực hợp đồng
      • Thủ tục hủy bỏ di chúc đã công chứng? Nộp hồ sơ ở đâu?
      • Quyền sở hữu tài sản là gì? Quyền sở hữu tài sản của công dân?
      BÀI VIẾT MỚI NHẤT
      • Viết đoạn văn đóng vai lão Hạc kể lại câu chuyện bán chó
      • Cảm nhận về Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng)
      • Đổi mới phương pháp giáo dục pháp luật học sinh, sinh viên?
      • Soạn bài Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân – Lớp 6 Chân trời sáng tạo
      • Đóng vai Giôn-xi kể lại câu chuyện Chiếc lá cuối cùng
      • Nam Á có mấy miền địa hình? Nêu rõ đặc điểm các miền?
      • Toán Vừa gà vừa chó bó lại cho tròn 36 con 100 chân chẵn
      • Thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô đại cáo chọn lọc siêu hay
      • Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt
      • Viết 4-5 câu kể về buổi đi chơi cùng người thân ý nghĩa
      • Như thế nào được coi là người tham gia giao thông có văn hóa?
      • Kết bài Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) hay nhất
      LIÊN KẾT NỘI BỘ
      • Tư vấn pháp luật
      • Tư vấn luật tại TPHCM
      • Tư vấn luật tại Hà Nội
      • Tư vấn luật tại Đà Nẵng
      • Tư vấn pháp luật qua Email
      • Tư vấn pháp luật qua Zalo
      • Tư vấn luật qua Facebook
      • Tư vấn luật ly hôn
      • Tư vấn luật giao thông
      • Tư vấn luật hành chính
      • Tư vấn pháp luật hình sự
      • Tư vấn luật nghĩa vụ quân sự
      • Tư vấn pháp luật thuế
      • Tư vấn pháp luật đấu thầu
      • Tư vấn luật hôn nhân gia đình
      • Tư vấn pháp luật lao động
      • Tư vấn pháp luật dân sự
      • Tư vấn pháp luật đất đai
      • Tư vấn luật doanh nghiệp
      • Tư vấn pháp luật thừa kế
      • Tư vấn pháp luật xây dựng
      • Tư vấn luật bảo hiểm y tế
      • Tư vấn pháp luật đầu tư
      • Tư vấn luật bảo hiểm xã hội
      • Tư vấn luật sở hữu trí tuệ
      LIÊN KẾT NỘI BỘ
      • Tư vấn pháp luật
      • Tư vấn luật tại TPHCM
      • Tư vấn luật tại Hà Nội
      • Tư vấn luật tại Đà Nẵng
      • Tư vấn pháp luật qua Email
      • Tư vấn pháp luật qua Zalo
      • Tư vấn luật qua Facebook
      • Tư vấn luật ly hôn
      • Tư vấn luật giao thông
      • Tư vấn luật hành chính
      • Tư vấn pháp luật hình sự
      • Tư vấn luật nghĩa vụ quân sự
      • Tư vấn pháp luật thuế
      • Tư vấn pháp luật đấu thầu
      • Tư vấn luật hôn nhân gia đình
      • Tư vấn pháp luật lao động
      • Tư vấn pháp luật dân sự
      • Tư vấn pháp luật đất đai
      • Tư vấn luật doanh nghiệp
      • Tư vấn pháp luật thừa kế
      • Tư vấn pháp luật xây dựng
      • Tư vấn luật bảo hiểm y tế
      • Tư vấn pháp luật đầu tư
      • Tư vấn luật bảo hiểm xã hội
      • Tư vấn luật sở hữu trí tuệ
      Dịch vụ luật sư uy tín toàn quốc


      Tìm kiếm

      Duong Gia Logo

      •   Tư vấn pháp luật qua Email
         Tư vấn nhanh với Luật sư

      VĂN PHÒNG MIỀN BẮC:

      Địa chỉ: 89 Tô Vĩnh Diện, phường Khương Đình, thành phố Hà Nội, Việt Nam

       Điện thoại: 1900.6568

       Email: dichvu@luatduonggia.vn

      VĂN PHÒNG MIỀN TRUNG:

      Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hoà Xuân, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam

       Điện thoại: 1900.6568

       Email: danang@luatduonggia.vn

      VĂN PHÒNG MIỀN NAM:

      Địa chỉ: 227 Nguyễn Thái Bình, phường Tân Sơn Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

       Điện thoại: 1900.6568

        Email: luatsu@luatduonggia.vn

      Bản quyền thuộc về Luật Dương Gia | Nghiêm cấm tái bản khi chưa được sự đồng ý bằng văn bản!

      Chính sách quyền riêng tư của Luật Dương Gia

      • Chatzalo Chat Zalo
      • Chat Facebook Chat Facebook
      • Chỉ đường picachu Chỉ đường
      • location Đặt câu hỏi
      • gọi ngay
        1900.6568
      • Chat Zalo
      Chỉ đường
      Trụ sở chính tại Hà NộiTrụ sở chính tại Hà Nội
      Văn phòng tại Đà NẵngVăn phòng tại Đà Nẵng
      Văn phòng tại TPHCMVăn phòng tại TPHCM
      Gọi luật sư Gọi luật sư Yêu cầu dịch vụ Yêu cầu dịch vụ
      • Gọi ngay
      • Chỉ đường

        • HÀ NỘI
        • ĐÀ NẴNG
        • TP.HCM
      • Đặt câu hỏi
      • Trang chủ