Hợp đồng vô hiệu được xem là những hợp đồng không tuân thủ đầy đủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định cho nên không phát sinh giá trị pháp lý. Vậy hợp đồng dân sự chưa công chứng có hiệu lực hay không?
Mục lục bài viết
1. Hợp đồng dân sự chưa công chứng có hiệu lực không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 119 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về hình thức của giao dịch dân sự. Cụ thể như sau:
– Giao dịch dân sự có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, đó có thể là lời nói, giao dịch dân sự có thể được thực hiện bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể;
– Giao dịch dân sự được thể hiện thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử thì cũng sẽ được coi là giao dịch được thể hiện dưới hình thức bằng văn bản;
– Trong trường hợp pháp luật Quy định giao dịch dân sự bắt buộc phải được thể hiện bằng văn bản và có công chứng tại các tổ chức hành nghề công chứng, hoặc có chứng thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bắt buộc phải thực hiện thủ tục đăng ký theo quy định của pháp luật thì cần phải tuân thủ theo quy định đó.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 117 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Theo đó thì có thể nói, một giao dịch dân sự sẽ có hiệu lực khi đắp ứng được đầy đủ các điều kiện cơ bản sau đây:
– Chủ thể tham gia giao dịch dân sự và xác lập giao dịch dân sự đó phải có năng lực pháp luật dân sự và có năng lực hành vi dân sự phù hợp với quy định của pháp luật về dân sự;
– Chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải hoàn toàn tự nguyện và không bị lừa dối hoặc ép buộc dưới bất kỳ hình thức nào;
– Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội, không đi ngược với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam;
– Hình thức của giao dịch dân sự cũng được xem là một trong những điều kiện bắt buộc để có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự đó cần phải đáp ứng điều kiện về hình thức.
Ngoài ra, căn cứ theo quy định tại Điều 401 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về hiệu lực của hợp đồng. Theo đó thì có thể nói như sau:
– Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật liên quan có quy định khác;
– Kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực trên thực tế phù hợp với quy định của pháp luật thì các bên giao kết hợp đồng sẽ cần phải thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ đối với nhau đã được cam kết trong hợp đồng, hợp đồng đó chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo sự thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật trong trường hợp pháp luật có quy định khác.
Như vậy có thể nói, theo các điều luật nêu trên, hợp đồng dân sự có thể được giao kết dưới nhiều hình thức khác nhau, hợp đồng dân sự có thể được giao kết dưới hình thức bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể khi pháp luật không có quy định cụ thể về hình thức bắt buộc của hợp đồng dân sự. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng cần phải được lập thành văn bản và có công chứng tại các tổ chức hành nghề công chứng và có chứng thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì mới cần phải tuân theo quy định đó. Như vậy có thể nói, hợp đồng dân sự chưa công chứng cũng có thể có hiệu lực trên thực tế, trong trường hợp pháp luật không bắt buộc hợp đồng đó phải tuân thủ quy định về hình thức và phải tiến hành hoạt động công chứng.
2. Khi nào hợp đồng dân sự không tuân thủ quy định về hình thức nhưng vẫn có hiệu lực?
Căn cứ theo quy định tại Điều 129 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức. Theo đó thì có thể nói, giao dịch dân sự vi phạm quy định về điều kiện có hiệu lực, cụ thể là vi phạm quy định về điều kiện hình thức trong trường hợp pháp luật có quy định bắt buộc giao dịch dân sự đó bắt buộc phải tuân thủ quy định về mặt hình thức thì sẽ bị vô hiệu, tuy nhiên pháp luật cũng có những quy định ngoại lệ. Tức là hợp đồng dân sự không tuân thủ quy định về hình thức nhưng vẫn có hiệu lực trong những trường hợp sau đây:
– Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải lập thành văn bản, tuy nhiên văn bản đó không đúng quy định của pháp luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba (2/3) nghĩa vụ trong giao dịch dân sự phù hợp với sự thỏa thuận ban đầu thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên trong giao dịch dân sự đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án sẽ ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch dân sự đó;
– Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản trên thực tế, tuy nhiên giao dịch dân sự đó vi phạm quy định bắt buộc về công chứng hoặc chứng thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mà một bên hoặc các bên trong giao dịch dân sự đó đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch theo sự thỏa thuận ban đầu của các bên, thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên trong giao dịch dân sự, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án sẽ ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch dân sự đó. Trong trường hợp này thì các bên sẽ không cần phải thực hiện hoạt động công chứng tại các tổ chức hành nghề công chứng hoặc chứng thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Do đó có thể nói, trong trường hợp pháp luật bắt buộc hợp đồng dân sự phải lập thành văn bản và phải có công chứng theo quy định của pháp luật, tuy nhiên các bên trong hợp đồng không tiến hành hoạt động công chứng theo quy định của pháp luật, về mặt bản chất thì giao dịch đó sẽ bị vô hiệu. Tuy nhiên trong trường hợp các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba (2/3) nghĩa vụ trong hợp đồng, theo yêu cầu của một bên hoặc các bên thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án sẽ ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó mà không nhất thiết phải tiến hành hoạt động công chứng hợp đồng dân sự. Đây được xem là trường hợp ngoại lệ và quy định này thể hiện tối đa nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận và định đoạt của các bên trong giao dịch dân sự.
3. Quy định về hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức:
Pháp luật hiện nay đã có những quy định cụ thể về hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức. Căn cứ theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu nói chung và vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức nói riêng, cụ thể như sau:
– Về giá trị pháp lý của hợp đồng, hợp đồng vô hiệu sẽ có hậu quả là sẽ không làm phát sinh, không làm thay đổi phải không làm. Dứt quyền và nghĩa vụ của các bên được tính kể từ thời điểm giao kết, hợp đồng vô hiệu sẽ làm cho hợp đồng đó không có giá trị pháp lý được tính kể từ thời điểm giao kết cho dù hợp đồng dân sự đó đã được thực hiện trên thực tế hay chưa;
– Về lợi ích vật chất, khi hợp đồng vô hiệu thì theo quy định của pháp luật các bên bắt buộc phải khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu như các bên không hoàn trả được bằng hiện vật thì sẽ phải quy đổi thành tiền để hoàn trả, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật liên quan có quy định khác;
– Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng sẽ không bao gồm việc Bồi thường thiệt hại về tinh thần. Việc bồi thường thiệt hại do hợp đồng dân sự vô hiệu sẽ không được xem là một trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo quy định của pháp luật;
– Về vấn đề xử lý các khoản lợi thu được từ hợp đồng vô hiệu, theo đó thì các bên cần phải hoàn trả lại các lợi ích thu được từ hợp đồng vô hiệu. Những hoa lợi và lợi tức từ việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu nếu như thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu thì chủ sở hữu đó sẽ được nhận lại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
– Về vấn đề bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngày tình trong trường hợp hợp đồng bị vô hiệu. Căn cứ theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì có thể nói, trong một số trường hợp người thứ ba sẽ được tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp trong trường hợp đó được xem là người ngay tình. Trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu tuy nhiên tài sản giao dịch được xác định là động sản không cần phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao thông qua một giao dịch khác cho người thứ ba ngày tình thì giao dịch đó vẫn sẽ có hiệu lực. Trong trường hợp tài sản giao dịch được xác định là bất động sản hoạt động sản phải đăng ký quyền sở hữu nhưng chưa đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao thông qua một giao dịch xác cho người thứ ba ngày tình thì giao dịch với người thứ ba đó sẽ bị vô hiệu.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015.