Quan hệ hôn nhân được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của cả hai bên. Tuy nhiên, cuộc sống có thể xảy ra những biến cố không lường trước khiến một bên không may bị mất năng lực hành vi dân sự (như bệnh tật, tai nạn...). Vậy, có được đơn phương ly hôn với người mất năng lực hành vi dân sự không?
Mục lục bài viết
- 1 1. Đơn phương ly hôn với người mất năng lực hành vi dân sự:
- 2 2. Căn cứ yêu cầu đơn phương ly hôn với người mất năng lực hành vi dân sự:
- 3 3. Người giám hộ có quyền yêu cầu ly hôn cho người mất năng lực hành vi dân sự không?
- 4 4. Thủ tục ly hôn đơn phương khi một bên mất năng lực hành vi dân sự:
- 5 5. Giải quyết quyền nuôi con và tài sản khi một bên mất năng lực hành vi dân sự:
- 6 6. Điểm khác biệt giữa vụ án ly hôn với người bị mất năng lực hành vi dân sự và vụ án ly hôn thông thường:
- 7 7. Bản án điển hình về đơn phương ly hôn với người mất năng lực hành vi dân sự:
1. Đơn phương ly hôn với người mất năng lực hành vi dân sự:
Trong đời sống hôn nhân, không ít trường hợp một bên vợ hoặc chồng bị bệnh nặng hoặc mắc chứng rối loạn tâm thần dẫn đến mất năng lực hành vi dân sự. Điều này đồng nghĩa với việc người đó không còn khả năng nhận thức và làm chủ hành vi, phải có người giám hộ theo quy định pháp luật. Đây là vấn đề nhạy cảm, vừa liên quan đến quyền nhân thân vừa liên quan đến nguyên tắc bảo vệ người yếu thế trong hôn nhân. Do đó, pháp luật Việt Nam đã có những quy định cụ thể để điều chỉnh, vừa bảo đảm tính nhân đạo vừa bảo đảm sự công bằng trong việc giải quyết ly hôn khi một bên bị mất năng lực hành vi dân sự.
1.1. Thế nào là người mất năng lực hành vi dân sự?
Theo Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Kết luận:
Một người được xác định là người mất năng lực hành vi dân sự khi thỏa mãn đầy đủ các yếu tố sau:
- Người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi;
- Có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan;
- Tòa án đã ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
1.2. Có được đơn phương ly hôn với người mất năng lực hành vi dân sự không?
Khoản 2 và khoản 3 Điều 24 Luật Hôn nhân gia đình 2014 có quy định về căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng như sau:
Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan;
Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn.
Khoản 1 Điều 88 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 87 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng.
Thông thường, trong nhiều quan hệ dân sự, vợ hoặc chồng có thể đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên trong vụ án ly hôn, pháp luật không cho phép vợ hoặc chồng đại diện cho nhau nếu một bên còn lại bị mất năng lực hành vi dân sự. Lý do là việc đại diện này có thể dẫn đến xung đột lợi ích, từ đó ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cả hai bên, không đảm bảo tính vô tư khách quan. Do đó, khi có yêu cầu ly hôn, Tòa án sẽ chỉ định một người giám hộ hợp pháp để đại diện cho người mất năng lực hành vi dân sự trong quá trình tố tụng.
Kết luận:
- ĐƯỢC quyền đơn phương ly hôn với người mất năng lực hành vi dân sự;
- Tuy nhiên, nếu chưa có quyết định của Tòa án tuyên bố người kia mất năng lực hành vi dân sự thì phải thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự đối với bị đơn trước;
- Sau đó nộp đơn xin ly hôn tại Tòa án có thẩm quyền để được xem xét và giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
1.3. Có cần sự đồng ý của người mất năng lực hành vi dân sự không?
Người bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự không có khả năng tự đưa ra ý chí độc lập về việc ly hôn.
Vì vậy, sự đồng ý của họ không phải là điều kiện bắt buộc trong hồ sơ ly hôn.
Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của người mất năng lực thì cần phải có người giám hộ hợp pháp đại diện cho họ trong quá trình tố tụng.
Kết luận: Không cần sự đồng ý của người mất năng lực hành vi dân sự trong trường hợp này, người giám hộ hợp pháp sẽ đại diện cho họ trong quá trình tố tụng tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Căn cứ yêu cầu đơn phương ly hôn với người mất năng lực hành vi dân sự:
Một bên vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi dân sự không phải là căn cứ trực tiếp để yêu cầu ly hôn đơn phương. Theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, Tòa án chỉ chấp nhận yêu cầu ly hôn đơn phương khi có căn cứ chứng minh:
Về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình; Hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Đối với trường hợp một bên mất năng lực hành vi dân sự, các yếu tố này được xem xét dựa trên tình trạng thực tế của quan hệ hôn nhân.
2.1. Căn cứ để Tòa án thụ lý giải quyết vụ án:
Đơn cử như:
- Bị đơn đã có bản án chính thức của Tòa án tuyên bố người đó bị mất năng lực hành vi dân sự. Bên yêu cầu ly hôn phải cung cấp quyết định này cho Tòa án;
- Chính căn bệnh gây ra tình trạng mất năng lực hành vi dân sự đó đã dẫn đến hành vi bạo lực gia đình (bao gồm cả bạo lực thể chất, tinh thần), gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe và tinh thần của đối phương;
- Người mất năng lực hành vi dân sự không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ vợ chồng (chăm sóc, chung sống, duy trì đời sống hôn nhân…);
- Cuộc sống gia đình không còn sự gắn bó, quan hệ vợ chồng chỉ còn tồn tại về mặt pháp lý, hạnh phúc hôn nhân không thể đạt được.
2.2. Trường hợp Tòa án từ chối thụ lý giải quyết vụ án:
- Không có bản án chính thức của Tòa án tuyên bố người đó bị mất năng lực hành vi dân sự;
- Bị đơn vẫn có khả năng thực hiện nghĩa vụ hôn nhân;
- Mối quan hệ hôn nhân không rơi vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân vẫn có thể đạt được.
3. Người giám hộ có quyền yêu cầu ly hôn cho người mất năng lực hành vi dân sự không?
Khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định: Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Theo đó, người giám hộ có quyền yêu cầu ly hôn cho người mất năng lực hành vi dân sự khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau:
- Một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình;
- Là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra;
- Bạo lực gia đình là nguyên nhân trực tiếp làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Lưu ý về phạm vi quyền của người giám hộ:
- Người giám hộ chỉ được yêu cầu ly hôn trong phạm vi bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người được giám hộ;
- Không có quyền yêu cầu ly hôn chỉ vì lý do mâu thuẫn chung chung hoặc vì lợi ích của người giám hộ.
Kết luận: Người giám hộ có quyền yêu cầu ly hôn cho người bị mất năng lực hành vi dân sự khi thỏa mãn các điều luật luật định.
4. Thủ tục ly hôn đơn phương khi một bên mất năng lực hành vi dân sự:
Thủ tục ly hôn đơn phương khi một bên mất năng lực hành vi dân sự có đặc thù riêng so với các vụ ly hôn thông thường, bởi phải có sự tham gia của người giám hộ và sự giám sát của cơ quan bảo vệ pháp luật (Viện kiểm sát).
4.1. Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ:
Hồ sơ cần chuẩn bị gồm các giấy tờ, tài liệu sau:
Đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn đơn phương (mẫu đơn số 23-DS được ban hành kèm theo Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP, sửa đổi bởi Nghị quyết 04/2018/NQ-HĐTP);
- Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn bản chính;
- Bản sao chứng thực: Giấy tờ tùy thân và giấy khai sinh của con (nếu có);
- Quyết định của Tòa án tuyên bố người chồng hoặc vợ mất năng lực hành vi dân sự (theo Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015);
- Tài liệu, chứng cứ chứng minh hôn nhân trầm trọng (biên bản xác nhận mâu thuẫn, hồ sơ y tế);
- Nếu có tranh chấp tài sản: Tài liệu chứng minh quyền sở hữu (như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hợp đồng mua bán…).
4.2. Bước 2: Nộp hồ sơ tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền:
Thẩm quyền giải quyết thuộc về:
- Tòa án nhân dân khu vực nơi cư trú của bị đơn (người mất năng lực hành vi dân sự) có thẩm quyền giải quyết;
- Trường hợp có yếu tố nước ngoài, thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú của bị đơn (người mất năng lực hành vi dân sự)
4.3. Bước 3: Trình tự giải quyết:
- Nộp đơn và hồ sơ hợp lệ tại Tòa án có thẩm quyền;
- Tòa án xem xét hồ sơ: Nếu hợp lệ thì Tòa án sẽ ra thông báo nộp tạm ứng án phí;
- Thụ lý vụ án sau khi nộp án phí;
- Xác minh tình trạng hôn nhân và giám hộ: Tòa án yêu cầu cung cấp quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự; xác định người giám hộ hợp pháp và yêu cầu họ tham gia tố tụng;
- Hòa giải: Không tiến hành hòa giải do đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự (khoản 3 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015);
- Mở phiên tòa xét xử, có sự tham gia của Viện kiểm sát để bảo đảm tính khách quan;
- Ra bản án, giải quyết ly hôn, quyền nuôi con, tài sản chung.
Lưu ý về thời gian giải quyết: Giao động khoảng 4 – 6 tháng hoặc có thể kéo dài hơn trong trường hợp cần xác minh các vấn đề có liên quan.
5. Giải quyết quyền nuôi con và tài sản khi một bên mất năng lực hành vi dân sự:
Tòa án đặc biệt chú trọng việc bảo vệ quyền lợi của người bị mất NLHVDS khi giải quyết các vấn đề hậu ly hôn.
5.1. Về tài sản:
Việc phân chia tài sản chung vẫn tuân theo các nguyên tắc tại Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình (xem xét công sức đóng góp, hoàn cảnh mỗi bên…).
Tuy nhiên, Tòa án sẽ có xu hướng bảo vệ và ưu tiên quyền lợi về tài sản cho người mất NLHVDS để đảm bảo họ có điều kiện vật chất cho việc chữa bệnh, chăm sóc và duy trì cuộc sống sau này. Họ có thể được chia phần tài sản nhiều hơn hoặc được ưu tiên sở hữu nhà ở. Phần tài sản này sẽ do người giám hộ của họ quản lý.
5.2. Về con chung:
Theo Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình 2014: Quyền nuôi con sẽ do các bên thỏa thuận với nhau, nếu không thỏa thuậnd dược thì Tòa án sẽ quyết định người có quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con dựa trên yếu tố có lợi cho trẻ em.
Khoản 3 Điều 6 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP có giải thích một trong những trường hợp “người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con” là: Mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bị bệnh nặng khác mà không thể tự chăm sóc bản thân hoặc không thể trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Do tình trạng sức khỏe, người bị mất năng lực hành vi dân sự không thể trực tiếp nuôi con nên quyền nuôi con sẽ được giao cho người vợ/chồng khỏe mạnh.
Người trực tiếp nuôi con có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục con và đồng thời phải tạo điều kiện hợp lý để người bệnh được thăm nom con theo Điều 82 Luật Hôn nhân gia đình 2014.
Kết luận: Quyền nuôi con khi ly hôn với người mất năng lực hành vi dân sự sẽ có lợi hơn cho bên còn lại.
6. Điểm khác biệt giữa vụ án ly hôn với người bị mất năng lực hành vi dân sự và vụ án ly hôn thông thường:
Điểm khác biệt của vụ án ly hôn với người bị mất năng lực hành vi dân sự là sau khi thụ lý, tòa án sẽ tiến hành đưa vụ án ra xét xử mà không qua thủ tục hòa giải như các vụ án ly hôn thông thường theo Khoản 3 Điều 207 BLTTDS.
Tiêu chí | Ly hôn thông thường | Ly hôn khi một bên mất năng lực hành vi dân sự |
Căn cứ pháp lý chính | Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. | Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015. |
Quyền yêu cầu ly hôn | Vợ, chồng hoặc cả hai có quyền yêu cầu. | Người giám hộ chỉ được yêu cầu trong trường hợp người mất năng lực là nạn nhân bạo lực gia đình. |
Hòa giải tại Tòa | Có quyền yêu cầu nhưng không bắt buộc theo Điều 52 Luật hôn nhân và gia đình 2014. | Không hòa giải được (theo Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015). |
Sự tham gia của người giám hộ | Không cần thiết. | Bắt buộc phải có người giám hộ đại diện cho người mất năng lực trong tố tụng. |
Sự giám sát của Viện kiểm sát | Tham gia trong những vụ án đặc biệt hoặc theo quy định tố tụng. | Bắt buộc tham gia để giám sát bảo vệ quyền lợi người mất năng lực hành vi dân sự. |
Hồ sơ cần bổ sung | Giấy tờ nhân thân, giấy đăng ký kết hôn, tài liệu chứng minh mâu thuẫn. | Cần kèm thêm quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự của Tòa án. |
Quyền nuôi con | Tòa xem xét điều kiện của cả hai bên. | Người mất năng lực hầu như không được giao quyền nuôi con do không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. |
Quyền định đoạt tài sản | Hai bên tự thỏa thuận hoặc Tòa án phân chia. | Người mất năng lực không được tự định đoạt tài sản, việc phân chia phải có người giám hộ và được Tòa giám sát chặt chẽ. |
Thời gian giải quyết | Trung bình từ 4 đến 6 tháng. | Có thể kéo dài hơn do phải xác minh tình trạng mất năng lực và chỉ định giám hộ. |
7. Bản án điển hình về đơn phương ly hôn với người mất năng lực hành vi dân sự:
Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 24/01/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa bà Nguyễn Ngọc B và ông Trương Tấn B. Cụ thể:
Thứ nhất, về quan hệ pháp luật:
Bà Nguyễn Ngọc Bông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Trương Tấn B và yêu cầu được nuôi con chung nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Thứ hai, về thẩm quyền giải quyết:
Ông Trương Tấn B có nơi cư trú tại khu phố B, phường N, thị xã T, tỉnh Bình Dương vì vậy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự thì Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương là Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
Thứ ba, về thủ tục:
Các đương sự trong vụ án đều có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Thứ tư, về nội dung:
+ Quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Ngọc B và ông Trương Tấn B được xác lập trên cơ sở tự nguyện vào năm 2011 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, thị xã T, tỉnh Bình Dương và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 144, quyển số 02/2011 ngày 14/12/2011 nên là hôn nhân hợp pháp;
+ Bà Nguyễn Ngọc B khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Trương Tấn B với lý do: Ông Trương Tấn B mất năng lực hành vi dân sự nên tình cảm vợ chồng không còn. Ông Trương Tấn B không thể quan tâm, chăm sóc gia đình và vợ con. Chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của bà Bông là bản án số 10/2018/QĐDS-ST ngày 30/8/2018 của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương tuyên bố ông Trương Tấn B mất năng lực hành vi dân sự.
Kết luận:
Tòa án nhân dân thị xã Thuận An đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Ngọc B đối với ông Trương Tấn B; Bà Nguyễn Ngọc B được ly hôn với ông Trương Tấn B.
THAM KHẢO THÊM: