Dâm ô trẻ em là hành vi xâm phạm tình dục nhưng không nhằm mục đích giao cấu hay quan hệ tình dục khác, thường gây tổn hại nghiêm trọng đến danh dự và sự phát triển tâm sinh lý của trẻ. Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định rõ tội danh này tại Điều 146 và coi đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần bị xử lý nghiêm khắc.
Mục lục bài viết
- 1 1. Dâm ô trẻ em được hiểu như thế nào?
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
- 4 4. Tinh tiết định khung tăng nặng của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
- 5 5. Phân biệt Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi và Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
1. Dâm ô trẻ em được hiểu như thế nào?
Trên thực tế, xâm hại tình dục đã không còn là điều gì quá xa với chúng ta bởi lẽ trên nhiều báo đài hiện nay đã đưa tin hàng loạt những vụ việc xâm hại tình dục đối với người dưới 16 tuổi. Và hành vi “dâm ô” chính là một trong những hành vi của những những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục.
Vì thế, có thể đưa ra khái niệm về Dâm ô trẻ em:
“Dâm ô trẻ em là những hành vi có tính chất tình dục của người trưởng thành nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân nhưng không đi đến việc giao cấu hay thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Các hành vi này thường bao gồm vuốt ve, sờ mó, ôm hôn, hoặc hành vi khác mang tính chất kích thích tình dục đối với trẻ em. Đây là hành vi xâm hại trực tiếp đến nhân phẩm, danh dự và đặc biệt gây tổn thương tâm lý, ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của trẻ.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
2.1. Cơ sở pháp lý của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
Hiện nay Điều 146 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi như sau:
“1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e) Tái phạm nguy hiểm
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Làm nạn nhân tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Tùy theo mức độ xâm phạm mà cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng hình phạt phù hợp với từng hành vi và đối tượng thực hiện.
2.2. Khách thể:
Khách thể của tội phạm nói chung là những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ và bị hành vi phạm tội xâm hại.
Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi đã xâm phạm trực tiếp tới quyền bất khả xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người dưới 16 tuổi, cụ thể đó là:
- Quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người dưới 16 tuổi;
- Sự phát triển bình thường về thể chất, tâm sinh lý của dưới 16 tuổi;
- Gây ảnh hưởng xấu đến những giá trị đạo đức của xã hội, tác động tiêu cực đến thuần phong mỹ tục và gây nên sự bất bình trong quần chúng nhân dân.
Đối tượng tác động của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là một bộ phận thuộc khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của Luật Hình sự. Đối tượng tác động của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi bắt buộc phải là người dưới 16 tuổi (không phân biệt đó là bé trai hay bé gái).
2.3. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi thể hiện ở hành vi:
- Hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi;
- Và không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác.
Cụ thể, khoản 3 Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP quy định:
Dâm ô là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục, gồm một trong các hành vi sau đây:
- Dùng bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm tiếp xúc (đụng chạm, cọ xát, chà xát…) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi;
- Dùng bộ phận khác trên cơ thể (tay, chân, miệng, lưỡi…) tiếp xúc (vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm…) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;
- Dùng dụng cụ tình dục tiếp xúc (đụng chạm, cọ xát, chà xát…) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;
- Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ tiếp xúc (vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm…) với bộ phận nhạy cảm của người phạm tội hoặc của người khác;
- Các hành vi khác có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục (ví dụ: hôn vào miệng, cổ, tai, gáy… của người dưới 16 tuổi).
Theo đó, dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác.
Lưu ý:
Các hành vi nêu trên của người phạm tội đều chưa hoặc không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 16 tuổi.
Nếu sau khi thực hiện hành vi dâm ô, người phạm tội đã thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng (ví dụ: hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo Điều 142 hoặc Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo ĐIều 145 Bộ luật Hình sự 2015).
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi có thể là bất kỳ người nào (nam giới hoặc nữ giới hoặc người đồng tính) có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 18 tuổi trở lên (theo Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015).
2.5. Mặt chủ quan:
Người phạm Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Khi thực hiện hành vi xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người dưới 16 tuổi, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, là trái pháp luật hình sự, gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đáng kể cho người dưới 16 tuổi về danh dự, nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về tình dục; nhưng họ vẫn mong muốn đều đó xảy ra nên đã sử dụng mọi phương thức để thực hiện hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
Dấu hiệu động cơ và mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
3. Khung hình phạt của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
Điều 146 Bộ luật Hình 2015 quy định về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi với khung hình phạt như sau:
Khung 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm với các tình tiết định khung tăng nặng gồm:
- Phạm tội có tổ chức;
- Phạm tội 02 lần trở lên;
- Đối với 02 người trở lên;
- Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%
- Tái phạm nguy hiểm.
Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm với các tình tiết định khung tăng nặng gồm:
- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên
- Làm nạn nhân tự sát.
Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Tinh tiết định khung tăng nặng của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng đối với Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 146 Bộ luật Hình 2015. Cụ thể như sau:
4.1. Tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 146 Bộ luật Hình 2015:
- Phạm tội có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 146 Bộ luật Hình 2015:
Tình tiết này được hiểu là có sự cấu kết chặt chẽ giữa 02 người trở lên, có sự phân công vai trò, chuẩn bị kế hoạch để thực hiện hành vi phạm tội. Việc phạm tội có tổ chức thể hiện tính chất nguy hiểm cao hơn rất nhiều so với hành vi phạm tội đơn lẻ vì sự liên kết này làm tăng khả năng che giấu, chuyên nghiệp và mở rộng phạm vi tác động đến nhiều nạn nhân. Đây là tình tiết phản ánh sự chủ động, chuẩn bị và ý thức coi thường pháp luật cao độ của người phạm tội.
- Phạm tội 02 lần trở lên theo điểm b khoản 2 Điều 146 Bộ luật Hình 2015:
Trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi dâm ô từ 02 lần trở lên, dù đối với cùng một nạn nhân hay nhiều nạn nhân thì đều bị coi là tình tiết định khung tăng nặng của tội danh này. Việc lặp lại hành vi cho thấy sự cố ý, không hối cải và nguy cơ tái phạm cao.
Ngoài ra, hành vi này còn để lại hậu quả tâm lý kéo dài và tổn thương tinh thần nặng nề cho người bị hại, nhất là khi họ còn ở độ tuổi chưa phát triển toàn diện về thể chất và nhận thức.
- Đối với 02 người trở lên theo điểm c khoản 2 Điều 146 Bộ luật Hình 2015:
Nếu hành vi dâm ô được thực hiện đối với từ 02 nạn nhân trở lên thì tính chất nguy hiểm của tội phạm tăng lên nhiều lần so với trường hợp phạm tội thông thường. Nhiều người bị hại đồng nghĩa với phạm vi xâm hại rộng, từ đó gây ra hậu quả xã hội nghiêm trọng hơn, gây mất an toàn cho môi trường sống và ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của trẻ em. Đây là tình tiết phản ánh hành vi phạm tội mang tính phổ biến, không phải hành vi bộc phát mà thể hiện sự lệch lạc rõ rệt về nhân cách và đạo đức.
- Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh theo điểm d khoản 2 Điều 146 Bộ luật Hình 2015:
Tình tiết này nhấn mạnh đến mối quan hệ đặc biệt giữa người phạm tội và nạn nhân. Khi người phạm tội lợi dụng vị trí, vai trò của mình (như thầy cô giáo, bác sĩ, cha dượng, mẹ kế, người giám hộ…) để thực hiện hành vi dâm ô thì mức độ nguy hiểm của hành vi sẽ cao hơn, vừa vi phạm pháp luật vừa trái đạo đức xã hội. Đồng thời tình tiết này gây tổn thương nghiêm trọng đến sự an toàn tâm lý và sự phát triển nhân cách của nạn nhân.
- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% theo điểm đ khoản 2 Điều 146 Bộ luật Hình 2015:
Hành vi dâm ô có thể để lại hậu quả nặng nề về tâm lý như hoảng loạn, trầm cảm, sợ hãi kéo dài, thậm chí rối loạn hành vi. Khi hậu quả được giám định xác định nạn nhân bị rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân với tỷ lệ tổn thương từ 31% đến 60% thì hành vi phạm tội không chỉ dừng lại ở xâm phạm thân thể đơn thuần mà đã trực tiếp ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tinh thần và khả năng hòa nhập xã hội của người bị hại. Đây là yếu tố tăng nặng đáng kể vì gây ra thiệt hại lâu dài và khó khắc phục.
- Tái phạm nguy hiểm theo điểm e khoản 2 Điều 146 Bộ luật Hình 2015:
Khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
- Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
- Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
4.2. Tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 146 Bộ luật Hình 2015:
- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên theo điểm a khoản 3 Điều 146 Bộ luật Hình 2015:
Đây là trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi dâm ô không chỉ gây tổn thương về tinh thần tức thời mà còn để lại hậu quả lâu dài, làm nạn nhân rơi vào tình trạng rối loạn tâm thần nặng, mất khả năng điều khiển hành vi và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe tâm thần ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng (tỷ lệ giám định lớn hơn hoặc bằng 61%).
Hậu quả này có thể kéo theo những hệ lụy dai dẳng, làm mất khả năng học tập, lao động và giao tiếp xã hội của nạn nhân, thậm chí có thể khiến nạn nhân lệ thuộc hoàn toàn vào gia đình hoặc cơ sở y tế.
Tình tiết này cho thấy mức độ tàn phá nặng nề của hành vi phạm tội, không chỉ là hành vi xâm hại nhân phẩm mà còn để lại thương tích lâu dài, gần như không thể hồi phục, buộc pháp luật phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc hơn.
- Làm nạn nhân tự sát theo điểm b khoản 3 Điều 146 Bộ luật Hình 2015:
Đây được xem là tình tiết định khung đặc biệt nghiêm trọng nhất của tội danh này. Về mặt pháp lý, tình tiết này phản ánh mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa hành vi phạm tội và cái chết của nạn nhân, cho thấy mức độ nguy hiểm cho xã hội cực kỳ cao.
Ngoài ra, hậu quả này không chỉ gây mất mát không thể khắc phục cho gia đình nạn nhân mà còn tạo ra sự phẫn nộ lớn trong xã hội. Đây là tình tiết đẩy hành vi dâm ô từ mức “xâm hại nghiêm trọng” lên thành “xâm hại đặc biệt nghiêm trọng” buộc Tòa án phải áp dụng khung hình phạt nặng nhất trong tội danh này (từ 07 đến 12 năm tù).
5. Phân biệt Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi và Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi:
Tiêu chí | Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142 Bộ luật Hình sự 2015) |
Hành vi khách quan | Hành vi dâm ô (xúc phạm tình dục nhưng không nhằm giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác) với người dưới 16 tuổi. | Hành vi giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác với người dưới 16 tuổi, có thể kèm theo vũ lực, đe dọa hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ. |
Độ tuổi nạn nhân | Nạn nhân là người dưới 16 tuổi. | Nếu dưới 13 tuổi: Mọi hành vi giao cấu/quan hệ tình dục khác đều cấu thành tội. Nếu từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi: Chỉ cấu thành khi trái ý muốn của nạn nhân. |
Chủ thể phạm tội | Người phạm tội phải từ đủ 18 tuổi trở lên (chủ thể đặc biệt). | Người phạm tội chỉ cần đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 (từ 14 tuổi với tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng). |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. | Khung 1: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khung 2: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Khung 3: Phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Tính chất nguy hiểm | Chủ yếu xâm hại danh dự, nhân phẩm, sự phát triển tâm sinh lý của trẻ em, không trực tiếp xâm phạm đến quyền tự do tình dục. | Xâm hại nghiêm trọng đến quyền tự do tình dục, nhân phẩm, sức khỏe, thậm chí tính mạng của nạn nhân. |
Mức độ hình phạt | Nhẹ hơn, cao nhất 12 năm tù. | Nặng hơn, cao nhất đến tù chung thân hoặc tử hình. |
6. Bản án điển hình của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
- Tên bản án:
Bản án số 60/2024/HS-ST ngày 13/03/2024 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
- Nội dung vụ án:
Vào khoảng 12 giờ ngày 26/11/2023, Võ Hữu Q đi cùng vợ chồng anh Nguyễn Chí C và chị Huỳnh Thị V1, cháu Huỳnh Thị Cẩm T (con anh C – chị V1) cùng cư trú tại nhà trọ: Ấp D, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai và anh Lê Quốc V2 đi đến N, ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu mục đích để nhận quà từ thiện. Khi đi và về thì anh C chở chị V2, còn bị cáo Q dùng xe moto biển kiểm soát: 86B1-350.96 chở cháu Huỳnh Thị Cẩm T, đến khoảng hơn 13 giờ cùng ngày, Q chở cháu T về đến phòng trọ, tại ấp D, xã T trước anh C, chị V1.
Khi về đến nhà trọ, Q nói cháu T đi lên gác phòng trọ của Q lau dọn để đem quà (gạo) lên trên cất giữ, lúc này, Q thấy cháu T ở độ tuổi mới lớn và cha mẹ cháu T chưa về nên Q nảy sinh ý định “dâm ô” với cháu T. Khi T đang lau sàn trên gác, Q tiến lại gần cháu T và dùng hai tay ôm cháu T từ phía sau trong tư thế chéo tay từ trên vai xuống và dùng tay sờ, bóp vào ngực của cháu T từ bên ngoài áo, tay phải Quang sờ, bóp ngực trái của T, còn tay trái sờ bóp ngực phải của T, cháu T vùng vẫy và bị ngã ra gác.
Lúc này, có tiếng xe máy trước cửa phòng trọ, do lo sợ bị phát hiện nên Q nói sẽ cho T số tiền 250.000 đồng và yêu cầu không được nói cho ba, mẹ T biết. Khi đi xuống bậc thang, Q đưa cho cháu T số tiền 250.000 đồng. Khi cháu T ra ngoài phòng trọ thì anh Lê Quốc V2 gặp cháu T và cháu T kể lại việc bị Q đè xuống nên anh V2 đến Công an xã T trình báo toàn bộ sự việc.
Đến 20 giờ cùng ngày, Q nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên đến Công an xã T để đầu thú.
- Quyết định của Tòa án:
+ Bị cáo Võ Hữu Q phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.
+ Xử phạt: Bị cáo Võ Hữu Q 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 11 năm 2023 (ngày bắt bị cáo tạm giữ chuyển tạm giam).
THAM KHẢO THÊM: