Chỗ ở là không gian riêng tư gắn liền với đời sống cá nhân, được Hiến pháp và pháp luật khẳng định là bất khả xâm phạm. Mọi hành vi xâm nhập trái pháp luật đối với chỗ ở của công dân đều được xác định là hành vi vi phạm pháp luật. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng này, Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định Tội xâm phạm chỗ ở của người khác tại Điều 158.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội xâm phạm chỗ ở của người khác:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội xâm phạm chỗ ở của người khác:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội xâm phạm chỗ ở của người khác:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội xâm phạm chỗ ở của người khác:
- 5 5. Phân biệt với Tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội xâm phạm chỗ ở của người khác:
1. Khái quát chung về Tội xâm phạm chỗ ở của người khác:
1.1. Tội xâm phạm chỗ ở của người khác là gì?
Chỗ ở của công dân được hiểu là bất kỳ nơi nào đang có người cư trú hợp pháp và được cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương thừa nhận. Chỗ ở của công dân có thể là:
- Nơi thường trú, chỗ ở lâu dài (không phân biệt đó là thuộc sở hữu nào như nhà riêng, tập thể, nhà thuê, mượn, hay nhà là nơi di động như thuyền của ngư dân…) nhưng cũng có thể là nơi tạm trú (như phòng ở trong khách sạn hay nhà trọ);
- Có thể là nơi ở cố định hoặc di động;
- Có thể là một tòa nhà hoặc chỉ là một căn phòng hoặc một phần của một phòng, không kể là nhà thuộc sở hữu của họ hay thuê, mượn hoặc ở nhờ.
Xâm phạm chỗ ở của người khác là việc xâm nhập vào chỗ ở không thuộc sở hữu của mình mà không được sự cho phép của chủ sở hữu hợp pháp hoặc người quản lý chỗ ở đó.
Điều 22 Hiến pháp 2013 quy định: Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý.
Theo đó, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên trên thực tế, tình trạng xâm phạm chỗ ở của người khác vẫn xảy ra dưới nhiều hình thức. Một số trường hợp phổ biến là:
- Chiếm giữ trái phép nhà, căn hộ hoặc đất có nhà ở;
- Cán bộ, cá nhân có thẩm quyền tiến hành khám xét chỗ ở trái pháp luật;
- Dùng vũ lực hoặc đe dọa buộc người khác rời khỏi nơi ở hợp pháp;
- Hoặc ngang nhiên xâm nhập trái phép vào nhà người khác.
Các vụ việc này không chỉ xâm phạm quyền riêng tư, quyền cư trú của công dân mà còn gây mâu thuẫn, tranh chấp gay gắt và ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội.
Tội xâm phạm chỗ ở của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Điều 158 Bộ luật Hình sự năm 2015 do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân.
Vì thế có thể đưa ra khái niệm về Tội xâm phạm chỗ ở của người khác như sau:
“Tội xâm phạm chỗ ở của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, bằng các thủ đoạn khác nhau như khám xét trái pháp luật, chiếm giữ hoặc cản trở trái pháp luật hoặc xâm nhập trái phép nhằm xâm hại trực tiếp đến quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân. Quyền có nơi ở và được pháp luật bảo vệ chỗ ở là một trong những quyền cơ bản, gắn liền với quyền tự do cá nhân và đời sống riêng tư của mỗi người. Do đó, mọi hành vi trái pháp luật xâm hại đến chỗ ở hợp pháp của cá nhân đều bị coi là hành vi nguy hiểm, cần phải xử lý nghiêm minh.”
1.2. Ý nghĩa của Tội xâm phạm chỗ ở của người khác trong pháp luật hình sự:
Việc pháp luật hình sự quy định Tội xâm phạm chỗ ở của người khác có ý nghĩa đặc biệt quan trọng như:
- Thứ nhất, khẳng định nguyên tắc hiến định. Chỗ ở của công dân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo hộ.
- Thứ hai, quy định này bảo vệ trực tiếp quyền riêng tư và đời sống cá nhân, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp luật.
- Thứ ba, việc xử lý nghiêm minh hành vi xâm phạm chỗ ở góp phần giữ gìn trật tự an ninh xã hội, ngăn chặn tình trạng tự ý chiếm dụng nhà cửa, đất đai và các hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn để xâm phạm quyền cư trú.
Theo đó, Tội xâm phạm chỗ ở của người khác này đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì kỷ cương pháp luật và bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực đời sống cá nhân và gia đình.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội xâm phạm chỗ ở của người khác:
Tội xâm phạm chỗ ở của người khác hiện nay đang được được quy định tại Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác;
b) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, gây sức ép về tinh thần hoặc thủ đoạn trái pháp luật khác buộc người khác phải rời khỏi chỗ ở hợp pháp của họ;
c) Dùng mọi thủ đoạn trái pháp luật nhằm chiếm, giữ chỗ ở hoặc cản trở trái phép, không cho người đang ở hoặc quản lý hợp pháp chỗ ở được vào chỗ ở của họ;
d) Tự ý xâm nhập chỗ ở của người khác mà không được sự đồng ý của chủ nhà hoặc người quản lý hợp pháp.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Làm người bị xâm phạm chỗ ở tự sát;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội xâm phạm chỗ ở của người khác:
2.1. Khách thể:
Khách thể của Tội xâm phạm chỗ ở của người khác là: Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của người khác.
Đối tượng tác động của Tội xâm phạm chỗ ở của người khác có thể là: Nhà ở thuộc sở hữu hợp pháp của ngươi bị hại hoặc cũng có thể là nơi ở nhờ, nơi thuê để ở hoặc bất cứ nơi nào mà người bị hại sử dụng để ở (như nhà kho, thùng xe, trên ghe tàu…).
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác được mô tả cụ thể tại Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015 gồm các hành vi sau:
- Khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác:
Là hành vi của người không có thẩm quyền, nhiệm vụ nhưng vì động cơ riêng tư của mình mà đã tự ý vào lục soát, khám xét chỗ ở của người khác khi chưa được sự cho phép của chủ sở hữu hợp pháp. Việc lục soát và khám xét được tiến hành trái quy định của pháp luật.
Hoặc có thể là hành vi của người có thẩm quyền, nhiệm vụ khám chỗ ở nhưng không chấp hành đúng những quy định của pháp luật về căn cứ, thẩm quyền ra lệnh và trình tự thủ tục tiến hành khám xét chỗ ở (ví dụ: không có lệnh khám xét chỗ ở hoặc có lệnh nhưng lệnh đó không hợp pháp hoặc thực hiện khám xét chỗ ở của công dân không đúng thủ tục…).
Việc khám xét chỗ ở bắt buộc phải được tiến hành theo quy định tại Điều 192 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Việc khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện có công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, dữ liệu điện tử, tài liệu khác có liên quan đến vụ án. Việc khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã, truy tìm và giải cứu nạn nhân.
- Đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ:
Là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, gây sức ép về tinh thần hoặc thủ đoạn trái pháp luật khác buộc người khác phải rời khỏi chỗ ở hợp pháp của họ một cách miễn cưỡng, trái với ý muốn của họ, trừ những trường hợp thực hiện các quyết định về cưỡng chế và thu hồi… theo quyết định của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như quyết định cưỡng chế kê biên tài sản của chấp hành viên…
Tuy nhiên, việc này vẫn phải đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường, nếu không tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh này.
Hành vi đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ thường do những người không có chức vụ, quyền hạn thực hiện như: Chủ nợ xiết nợ, tranh chấp thừa kế, tranh chấp trong trong quan hệ thuê nhà, mượn nhà…
- Chiếm giữ chỗ ở hoặc cản trở trái pháp luật người đang ở hoặc người đang quản lý hợp pháp vào chỗ ở của họ:
Là hành vi dùng mọi thủ đoạn trái pháp luật nhằm chiếm, giữ chỗ ở hoặc cản trở trái phép, không cho người đang ở hoặc quản lý hợp pháp chỗ ở được vào chỗ ở của họ.
- Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác:
Là hành vi tự ý xâm nhập chỗ ở của người khác mà không được sự đồng ý của chủ nhà hoặc người quản lý hợp pháp.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội xâm phạm chỗ ở của người khác được thực hiện với lỗi cố ý.
Người phạm tội nhận thức rõ hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của tội xâm phạm chỗ ở người khác là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015.
3. Khung hình phạt của Tội xâm phạm chỗ ở của người khác:
Tội xâm phạm chỗ ở của người khác theo Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội xâm phạm chỗ ở của người khác:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội xâm phạm chỗ ở của người khác hiện nay đang được quy định tại khoản 2 Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015 với mức hình phạt là phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Cụ thể như sau:
- Có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015:
Phạm tội có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa nhiều người cùng thực hiện hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác, có sự phân công vai trò, nhiệm vụ cụ thể, có sự chuẩn bị và kế hoạch trước.
Đây là tình tiết làm tăng mức độ nguy hiểm của hành vi bởi khi nhiều người cùng câu kết thì khả năng khống chế nạn nhân, chiếm đoạt chỗ ở hoặc cản trở quyền vào ở của chủ thể hợp pháp sẽ mạnh mẽ hơn, từ đó gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc phát hiện và xử lý. Hành vi này không chỉ xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở mà còn tiềm ẩn nguy cơ gây mất an ninh trật tự xã hội.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn theo điểm b khoản 2 Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015:
Tình tiết này áp dụng đối với người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức và lợi dụng vị trí công tác của mình để xâm phạm chỗ ở của người khác.
Ví dụ: Cán bộ có thẩm quyền khám xét nhưng lại thực hiện việc khám xét trái pháp luật hoặc người quản lý nhà ở công vụ dùng quyền lực để chiếm giữ chỗ ở của người dân.
Hành vi này đặc biệt nguy hiểm vì không chỉ xâm phạm quyền cá nhân mà còn làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào sự liêm chính, công bằng của bộ máy nhà nước. Do đó, pháp luật quy định mức hình phạt nghiêm khắc hơn để đảm bảo tính răn đe.
- Phạm tội 02 lần trở lên theo điểm c khoản 2 Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015:
Tình tiết phạm tội 2 lần trở lên phản ánh tính chất tái phạm nhiều lần cho thấy người phạm tội có ý thức coi thường pháp luật, cố tình lặp lại hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác. Việc tái phạm chứng minh mức độ nguy hiểm cao hơn, ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều người hơn cũng như gây bất ổn xã hội. Do vậy, pháp luật quy định tình tiết này là tình tiết định khung tăng nặng, buộc người phạm tội phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc hơn so với trường hợp phạm tội lần đầu.
- Làm người bị xâm phạm chỗ ở tự sát theo điểm d khoản 2 Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015:
Đây là tình tiết đặc biệt nghiêm trọng, bởi hậu quả trực tiếp là tước đoạt quyền được sống của nạn nhân – quyền cơ bản nhất của con người. Khi bị xâm phạm chỗ ở, nhiều người rơi vào trạng thái bị xúc phạm nghiêm trọng về danh dự và nhân phẩm, bị dồn nén áp lực tâm lý từ đó dẫn đến hành vi tự sát.
Trong trường hợp này, mặc dù người phạm tội không trực tiếp tước đoạt tính mạng nhưng hành vi xâm phạm đã gián tiếp gây ra hậu quả chết người. Vì vậy, pháp luật quy định mức hình phạt tăng nặng để bảo đảm công bằng và tính răn đe cao.
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội theo điểm đ khoản 2 Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015:
Tình tiết này áp dụng khi hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân cụ thể mà còn gây ra những hệ lụy lớn đối với xã hội, làm mất an ninh trật tự tại địa phương hoặc gây hoang mang trong dư luận.
Ví dụ: Một nhóm người có hành vi chiếm giữ trái phép nhiều hộ gia đình trong khu dân cư, dẫn đến khiếu kiện và tụ tập đông người, ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội.
Vì thế tình tiết này phản ánh mức độ nguy hiểm cao hơn, đòi hỏi Nhà nước phải xử lý nghiêm để bảo vệ trật tự công cộng và an toàn xã hội so với các trường hợp phạm tội thông thường khác.
5. Phân biệt với Tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở:
Tiêu chí | Tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở (Điều 343 Bộ luật Hình sự năm 2015) | Tội xâm phạm chỗ ở của người khác (Điều 158 Bộ luật Hình sự năm 2015) |
Khách thể bị xâm phạm | Trật tự quản lý hành chính của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý, sử dụng và xây dựng nhà ở. | Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân – quyền nhân thân được Hiến pháp bảo hộ. |
Chủ thể | Người có năng lực trách nhiệm hình sự, thường là cá nhân có hành vi chiếm dụng và xây dựng trái phép. | Người có năng lực trách nhiệm hình sự; có thể là bất kỳ ai, kể cả người có chức vụ và quyền hạn. |
Hành vi khách quan | Chiếm dụng chỗ ở hoặc xây dựng nhà trái phép, và đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án về hành vi này mà chưa được xóa án tích nhưng còn vi phạm. | Khám xét trái pháp luật chỗ ở, đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở, chiếm giữ hoặc cản trở trái pháp luật, xâm nhập trái pháp luật vào chỗ ở của người khác. |
Điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự | Chỉ truy cứu khi tái phạm: Đã bị xử phạt hành chính hoặc bị kết án về cùng hành vi mà chưa được xóa án tích. | Chỉ cần có hành vi xâm phạm chỗ ở trái pháp luật, không phụ thuộc vào việc đã bị xử phạt hay chưa. |
Mức hình phạt | Người nào chiếm dụng chỗ ở, xây dựng nhà trái phép, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Mức độ nguy hiểm | Xâm phạm trật tự quản lý nhà ở, gây hậu quả trong lĩnh vực quản lý đô thị và nhà đất. | Trực tiếp xâm hại quyền tự do và đời sống riêng tư của công dân, hậu quả nghiêm trọng hơn về nhân thân. |
6. Bản án điển hình của Tội xâm phạm chỗ ở của người khác:
- Tên bản án:
Bản án 74/2017/HSST ngày 20/09/2017 về tội xâm phạm chỗ ở của công dân của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.
- Nội dung vụ án:
Khoảng 10 giờ 25 phút ngày 14/12/2016, Đỗ Thành Đ, Quách Thị Cẩm D và Đỗ Thị Minh Th (Là con ruột của Đ và D) đến nhà bà Nguyễn Thị Kim Ch, trú tại: Phòng 201, Chung cư C1 thuộc khu phố 6, phường Th, thành phố Ph, tỉnh Ninh Thuận để đòi nợ. Trước khi đi bị cáo chủ động lấy con dao Thái lan có cán bằng nhựa, màu cam dài 10,2cm, rộng 02cm, phần lưỡi dao bằng kim loại dài 10,5cm, rộng 02cm với mục đích đe dọa, khống chế tạo điều kiện để bị cáo D, Th xông vào lục hết tất cả đồ đạc trong nhà nhằm xem có tiền để lấy lại mà không nói cho bị cáo D (Th) biết, khi vô nhà bị cáo rút dao từ trong túi quần ra và nói: “Bây giờ tiền bạc tính sao, có trả hay không”, còn bị cáo D lớn tiếng với vợ chồng bà Ch và yêu cầu trả tiền.
Sau khi vợ chồng bà Ch, ông T trả lời không có tiền thì liền tức khắc bị cáo D và Th xông vào các các tủ trong phòng khách, phòng ngủ và phòng bếp để lục tìm tiền. Thấy vậy vợ chồng bà Ch, ông T nói miễng cưỡng: “bây giờ có lục đồ trong nhà cũng không có tiền, không tin thì lục đi”. Vì chị Tr cầm điện thoại định gọi cho người khác nhờ hỗ trợ, giúp đỡ, nên bị cáo D thu giữ 03 điện thoại gồm 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, hiệu HK phone màu trắng; 01 điện thoại di động, hiệu LG màu đen; 01 điện thoại di động, hiệu Q – Mobile, màu trắng. Sự việc chỉ dừng lại khi bị cáo D không tìm thấy có tiền trong các tủ.
Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm truy tố các bị cáo Đỗ Thành Đ, Quách Thị Cẩm D về tội “Xâm phạm chỗ ở của công dân” theo khoản 1 điều 124 BLHS là có căn cứ và đúng pháp luật.
- Quyết định của Tòa án:
Các bị cáo Đỗ Thành Đ, Quách Thị Cẩm D phạm tội “Xâm phạm chỗ ở của công dân”.
Xử phạt:
+ Bị cáo Đỗ Thành Đ 06 ( sáu) tháng cải tạo không giam giữ, thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND phường Đ, TP. Ph, tỉnh Ninh Thuận nhận được Quyết định thi hành án và bản án sơ thẩm.
+ Bị cáo Quách Thị Cẩm D 06 ( sáu) tháng cải tạo không giam giữ, thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND phường Đ, TP. Ph, tỉnh Ninh Thuận nhận được Quyết định thi hành án và bản án sơ thẩm.
+ Giao bị cao Đỗ Thành Đ, Quách Thị Cẩm D cho UBND phường Đ, TP. Ph, tỉnh Ninh Thuận giám sát, giáo dục .
THAM KHẢO THÊM: