Trong đời sống hiện nay, việc trao đổi thông tin qua thư tín, điện thoại hay các hình thức điện tử khác rất phổ biến. Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác được quy định tại Điều 159 Bộ luật Hình sự 2015 nhằm bảo vệ quyền riêng tư, thông tin cá nhân và đảm bảo an ninh, trật tự xã hội.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác:
- 1.1 1.1. Bí mật thư tín là gì?
- 1.2 1.2. Ý nghĩa của Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác trong pháp luật hình sự:
- 1.3 1.3. Cơ sở pháp lý của Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác:
- 5 5. Phân biệt với Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
- 6 6. Các hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác phổ biển:
1. Khái quát chung về Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác:
1.1. Bí mật thư tín là gì?
Thư tín là văn bản chứa đựng những thông tin mà một người muốn báo cho một (hoặc nhiều) người khác biết. Theo nghĩa rộng nhất, thư tín là bất kì thông tin nào được ghi nhận dưới một hình thức vật chất nhất định và được chuyển từ một người (người gửi) sang một người khác (người nhận), theo ý chí của người gửi.
Hiện nay thì thư tín thể hiện ở nhiều hình thức đa dạng hơn. Trong đó phải kể tới những hình thức phổ biến như:
- Thư viết trên giấy. Đây là loại thư tín cổ điển. Thông tin được ghi nhận trên giấy có thể bằng chữ viết thông thường hoặc bằng một hệ thống kí hiệu quy ước giữa chủ thể gửi thông tin và chủ thể nhận thông tin (gọi là mật mã trong ngôn ngữ thông dụng);
- Thông tin có thể được chứa đựng trong băng, đĩa từ dạng chữ viết, tiếng nói, hình ảnh hoặc cả ba;
- Thư được soạn thảo trên máy tính và gửi từ một địa chỉ điện tử đến một địa chỉ điện tử khác, thông qua mạng internet;
- Nhắn tin qua điện thoại, đây là việc để lại lời nhắn trên hộp thư thoại hoặc hộp tin nhắn của một số điện thoại. Lời nhắn trên hộp thư thoại tồn tại dưới dạng lời nói (lời đối thoại) được ghi âm.
Theo đó, “bí mật thư tín” được hiểu đơn giản là không ai được chiếm đoạt hoặc tự ý mở thư tín, điện thoại, điện tín của người khác dưới bất kì hình thức nào.
Bí mật về thư tín là một quyền cơ bản của công dân, được quy định trong Khoản 2 Điều 21 Hiến Pháp 2013 như sau: “Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.”
1.2. Ý nghĩa của Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác trong pháp luật hình sự:
- Thứ nhất, bảo vệ quyền riêng tư của công dân: Tội danh này nhấn mạnh việc bảo vệ thông tin cá nhân và trao đổi riêng tư, đảm bảo mỗi cá nhân có quyền giữ bí mật đời sống riêng và giao tiếp an toàn.
- Thứ hai, bảo vệ trật tự và an ninh xã hội: Hành vi xâm phạm bí mật, nếu không bị xử lý có thể dẫn đến mất ổn định trong quan hệ cá nhân và tổ chức, thậm chí ảnh hưởng đến an ninh mạng, thông tin quốc gia và xã hội.
- Thư ba, răn đe hành vi vi phạm: Việc quy định hình phạt cụ thể cho tội phạm này nhằm ngăn chặn các hành vi xâm nhập, chiếm đoạt và tiết lộ thông tin trái pháp luật, từ đó tạo cơ sở pháp lý để xử lý nghiêm minh các đối tượng vi phạm.
- Thứ tư, tăng cường ý thức pháp luật và đạo đức thông tin: Tội danh này góp phần giáo dục công dân về việc tôn trọng bí mật và thông tin riêng tư của người khác, đồng thời thúc đẩy việc sử dụng công nghệ thông tin một cách đúng đắn và có trách nhiệm.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác:
Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác được quy định tại Điều 159 Bộ luật hình sự năm 2015, cụ thể như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào;
b) Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông;
c) Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật;
d) Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật;
đ) Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tiết lộ các thông tin đã chiếm đoạt, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác;
đ) Làm nạn nhân tự sát.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác:
Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác là hành vi chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và vi tính hoặc có hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác đã bị xử lý hành chính hoặc xử lý kỷ luật mà còn vi phạm. Tội danh này gồm các yếu tố cấu thành như sau:
2.1. Khách thể:
Khách thể của tội phạm xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác là: Quyền được bảo đảm an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín hoặc các hình thức trao đổi riêng tư khác của công dân.
Đối tượng tác động của Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác là: Thư, điện báo, telex, fax, các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính.
Nếu đối tượng tác động là thư, điện thoại, telex, fax hoặc văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính của Nhà nước hoặc tổ chức thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này mà tùy trường hợp cụ thể người phạm tội vị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng.
Ví dụ: hành vi chiếm đoạt một công văn mật của cơ quan nhà nước là hành vi phạm tội chiếm đoạt tài liệu bí mật của nhà nước quy định tại Điều 337 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật hoặc tài liệu bí mật nhà nước.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi của Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác được mô tả tại khoản 1 điều 159 Bộ luật Hình sự 2015, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Cụ thể gồm các hành vi:
- Hành vi chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào;
- Hành vi cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông;
- Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật;
- Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật;
- Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác.
Đồng thời, người thực hiện một trong những hành vi trên phải đáp ứng được một trong những điều kiện sau đây về nhân thân:
- Người phạm tội đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
- Người phạm tội đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Về hậu quả và mối quan hệ nhân quả trong mặt khách quan của Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác:
- Những hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác là gây ra những thiệt hại về vật chất và tinh thần cho con người hoặc gây ra những thiệt hại về an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Những thiệt hại này có thể tính ra được bằng tiền nhưng cũng có thể không tính ra được bằng tiền.
- Hành vi phạm tội làm cho thư tín, điện thoại, điện tín không còn giữ được bí mật hoặc không đến được người nhận và do không giữ được bí mật hay không đến được người nhận. Từ đó có thể gây ra hậu quả khác về vật chất hoặc tinh thần cho người khác.
- Bộ luật Hình sự năm 2015 không căn cứ vào thiệt hại do hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại… gây ra để truy cứu trách nhiệm hình sự người vi phạm về tội danh này mà chỉ cần xác định thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác bị lộ, bị chiếm đoạt hoặc bị xâm phạm là tội phạm đã hoàn thành, những hậu quả khác do thư tín, điện thoại, điện tín bị lộ, bị chiếm đoạt hoặc bị xâm phạm chỉ có ý nghĩa trong việc xác định mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội để quyết định hình phạt.
Thực tiễn cho thấy tình trạng xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác xảy ra khá phổ biến ở nước ta hiện nay, nhưng việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm không đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu là do ý thức pháp luật chưa cao, chỉ khi nào do hành vi xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín gây ra hậu quả nghiêm trọng khác thì người có hành vi xâm phạm mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội này được thực hiện do cố ý (cố ý phạm tội), tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi xâm phạm thư tín, điện thoại, điện tín của người khác là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra hoặc nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Người phạm tội này có nhiều động cơ khác nhau. Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nên việc xác định động cơ phạm tội của người phạm tội chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.
Mục đích của người phạm tội là mong muốn xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác. Tuy nhiên mức độ có thể khác nhau, có người chỉ mong xem trộm thư rồi dán lại, có người chiếm đoạt…
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của tội phạm xâm phậm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác trước hết phải đảm bảo các yếu tố cần và đủ như: Độ tuổi, năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật Hình sự 2015.
Đối với tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội phạm này vì cả khoản 1 và khoản 2 Điều 159 Bộ luật Hình sự 2015 đều là tội phạm ít nghiêm trọng (theo Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015).
3. Khung hình phạt của Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác:
Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác theo Điều 159 Bộ luật Hình sự 2015 có những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác được quy định tại khoản 2 Điều 159 Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể như sau:
- Có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 159 Bộ luật Hình sự 2015:
Tình tiết “có tổ chức” được hiểu là hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác được thực hiện bởi nhiều người có sự phối hợp, bàn bạc và phân công vai trò rõ ràng. Việc phạm tội có tổ chức thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn, ảnh hưởng đến nhiều nạn nhân và có khả năng gây hậu quả nghiêm trọng hơn. Do đó pháp luật tăng khung hình phạt để vừa răn đe vừa phòng ngừa, đồng thời đảm bảo trừng trị nghiêm minh đối với các hành vi phạm tội có tính tập thể và quy mô.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn theo điểm b khoản 2 Điều 159 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi người phạm tội dùng vị trí công tác, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức để thực hiện hành vi xâm phạm bí mật hoặc thông tin riêng tư của người khác, họ khai thác niềm tin và quyền lực sẵn có, làm tăng khả năng phạm tội thành công và mức độ tổn hại cho nạn nhân. Đây là hành vi lợi dụng quyền lực để vi phạm pháp luật, thể hiện sự lợi dụng cơ hội từ vị trí công tác để xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, do đó cần tăng khung hình phạt để vừa xử lý nghiêm minh vừa ngăn chặn hành vi lạm quyền.
- Phạm tội 02 lần trở lên theo điểm c khoản 2 Điều 159 Bộ luật Hình sự 2015:
Việc phạm tội 02 lần trở lên cho thấy người thực hiện có ý chí vi phạm lặp lại, đồng thời gia tăng nguy cơ gây tổn hại liên tục cho quyền riêng tư và danh dự của nạn nhân. Hành vi tái phạm là dấu hiệu cho thấy người đó có thói quen vi phạm pháp luật, do đó luật tăng khung hình phạt nhằm răn đe và giáo dục người phạm tội, đồng thời bảo vệ quyền lợi của những người bị xâm hại.
- Tiết lộ các thông tin đã chiếm đoạt, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác theo điểm d khoản 2 Điều 159 Bộ luật Hình sự 2015:
Nếu người phạm tội tiết lộ thông tin riêng tư đã chiếm đoạt, dẫn đến tổn hại về danh dự, uy tín và nhân phẩm của người khác, hậu quả pháp lý trở nên nghiêm trọng hơn, ảnh hưởng không chỉ đến cá nhân mà đôi khi còn tác động xã hội rộng lớn. Đây là tình tiết định khung tăng nặng vì hậu quả trực tiếp và lâu dài đối với nạn nhân, đồng thời pháp luật cần xử lý nghiêm nhằm răn đe hành vi làm tổn thương danh dự, uy tín và nhân phẩm của công dân.
- Làm nạn nhân tự sát theo điểm đ khoản 2 Điều 159 Bộ luật Hình sự 2015:
Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là khi hành vi xâm phạm thông tin riêng tư dẫn đến nạn nhân tự sát, cho thấy mức độ nguy hiểm cao nhất của tội phạm này. Đây là tình tiết tăng nặng so với trường hợp phạm tội thông thường vì hành vi trực tiếp gây ra hậu quả chết người, ảnh hưởng sâu sắc đến gia đình nạn nhân và xã hội. Do đó pháp luật áp dụng khung hình phạt nghiêm khắc nhất nhằm vừa trừng trị hành vi vừa ngăn chặn nguy cơ xảy ra những trường hợp tương tự.
5. Phân biệt với Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
Tiêu chí | Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác (Điều 159 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (Điều 160 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khái niệm | Người xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác | Người cản trở, lừa gạt, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác làm ảnh hưởng đến quyền bầu cử, quyền ứng cử hoặc quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân của công dân |
Hành vi cụ thể | Hành vi của Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác:
| Hành vi của Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân:
|
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. | Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 02 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 nă |
Đối tượng bảo vệ | Quyền bí mật, an toàn thông tin, danh dự, uy tín, nhân phẩm của công dân | Quyền bầu cử, quyền ứng cử và quyền biểu quyết của công dân |
Mức độ nguy hiểm xã hội | Ảnh hưởng trực tiếp đến quyền riêng tư cá nhân, có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng như tự sát | Ảnh hưởng trực tiếp đến quyền dân chủ, tính hợp pháp và trật tự trong quá trình bầu cử và quá trình trưng cầu ý dân |
6. Các hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác phổ biển:
a. Xâm nhập, truy cập trái phép hộp thư điện tử hoặc mạng xã hội:
Trong thực tế, nhiều vụ việc xảy ra khi kẻ xấu truy cập vào tài khoản email, facebook, zalo hoặc messenger… của người khác mà không có sự đồng ý. Mục đích có thể là đọc tin nhắn cá nhân, lấy thông tin nhạy cảm hay tống tiền, gây áp lực tinh thần. Hành vi này xâm phạm trực tiếp quyền riêng tư và an toàn thông tin cá nhân.
b. Nghe lén hoặc ghi âm cuộc gọi, hội thoại cá nhân:
Thực tế cho thấy, một số cá nhân hoặc tổ chức cài đặt phần mềm gián điệp trên điện thoại, ghi âm cuộc gọi của người khác mà không được phép. Hành vi này xảy ra trong môi trường gia đình, công sở, hoặc trong các vụ việc tranh chấp cá nhân, nhằm thu thập bằng chứng, theo dõi hoặc tống tiền. Đây là hình thức xâm phạm an toàn thông tin rất nghiêm trọng vì can thiệp trực tiếp vào đời sống riêng tư của cá nhân.
c. Chiếm đoạt, mở trộm thư từ, bưu kiện hoặc các văn bản cá nhân:
Ở Việt Nam, tình trạng chiếm đoạt thư tín, bưu kiện cá nhân và hồ sơ quan trọng vẫn diễn ra, đặc biệt là trong các tòa nhà chung cư, nơi gửi nhận thư từ không an toàn. Kẻ xấu có thể lấy cắp hóa đơn, hợp đồng hoặc giấy tờ ngân hàng để trục lợi hoặc làm ảnh hưởng uy tín danh dự của nạn nhân.
d. Phát tán hoặc tiết lộ thông tin riêng tư:
Một thực tế phổ biến là việc cá nhân phát tán hình ảnh, thông tin cá nhân, email, tin nhắn hay clip riêng tư của người khác lên mạng xã hội mà chưa được phép. Hậu quả là gây tổn hại danh dự, uy tín, thậm chí đẩy nạn nhân vào tình trạng stress nặng hoặc trầm cảm, thậm chí tự sát trong một số vụ nghiêm trọng.
e. Sử dụng phần mềm gián điệp hoặc tấn công mạng để đánh cắp thông tin:
Trong thời đại công nghệ ngày càng phát triển như hiện nay, kẻ xấu cài đặt các ứng dụng công nghệ hoặc tấn công vào hệ thống máy tính để lấy thông tin cá nhân, mật khẩu ngân hàng, dữ liệu công việc. Hành vi này xảy ra nhiều trong môi trường doanh nghiệp, ngân hàng hoặc giữa các cá nhân có mâu thuẫn lợi ích, gây tổn thất tài chính và vi phạm quyền riêng tư nghiêm trọng.
f. Khám xét trái pháp luật hoặc chiếm quyền kiểm soát thiết bị cá nhân:
Trong thực tế, có trường hợp xâm nhập máy tính, điện thoại, USB cá nhân của người khác mà không được phép nhằm tìm kiếm thông tin nhạy cảm. Ví dụ: đồng nghiệp truy cập máy tính của người khác để lấy thông tin hồ sơ hoặc người thân chiếm quyền kiểm soát thiết bị để giám sát đời sống riêng tư trái phép của người khác.
THAM KHẢO THÊM: