Ly hôn đơn phương là vấn đề pháp lý phức tạp và thường phát sinh nhiều tranh chấp. Theo quy định của pháp luật, không phải bất kỳ ai cũng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Việc xác định đúng chủ thể có quyền nộp đơn ly hôn là bước đầu tiên và quan trọng nhất để tránh kéo dài thời gian. Vậy, ai có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đơn phương?
Mục lục bài viết
- 1 1. Người nào có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đơn phương?
- 2 2. Khi nào vợ, chồng, cha mẹ hoặc người thân tích khác được yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đơn phương?
- 3 3. Người chồng bị hạn chế quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đơn phương trong trường hợp nào?
- 3.1 3.1. Trường hợp người chồng bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn khi người vợ đang có thai:
- 3.2 3.2. Trường hợp người chồng bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn khi sự kiện sinh đẻ của người vợ chưa đủ 12 tháng:
- 3.3 3.3. Trường hợp người chồng bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn khi người vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi:
- 4 4. Trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù, đang ở nước ngoài có quyền yêu cầu không?
- 5 5. Phải chịu hệ quả pháp lý gì nếu đơn yêu cầu ly hôn đơn phương do người không có quyền nộp?
1. Người nào có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đơn phương?
Pháp luật hiện nay đã có quy định cụ thể về những người có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn đơn phương.
Căn cứ theo quy định tại Điều 51 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014, có ghi nhận về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn.
Các chủ thể sau đây có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đơn phương:
Thứ nhất: Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
Thứ hai: Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn trong trường hợp đặc biệt.
1.1. Vợ, chồng có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn khi nào?
- Khoản 1 Điều 36 Hiến pháp năm 2013 quy định: Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau;
- Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình;
- Điều 19 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự;
- Khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án;
- Khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định: Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
Kết luận: Vợ, chồng hoặc cả hai bên vợ chồng đều có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đơn phương khi có đầy đủ căn cứ yêu cầu ly hôn đơn phương theo Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình 2014 nếu hai bên đều có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
1.2. Cha mẹ hoặc người thân thích khác có quyền yêu cầu ly hôn đơn phương khi nào?
Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đơn phương khi thỏa mãn đầy đủ 02 điều kiện sau đây (khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân gia đình 2015):
- Một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình;
- Đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Lưu ý: Người thân thích là người có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, người có cùng dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm vi ba đời (khoản 19 Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình 2014).
Cụ thể hơn, người thân thích là người có quan hệ với người tham gia tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm (điểm e khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015):
- Vợ, chồng;
- Bố đẻ, mẹ đẻ, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ;
- Bố nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi;
- Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột;
- Cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột.
Kết luận: Quy định nhằm bảo vệ quyền lợi cho người yếu thế – người không thể tự yêu cầu ly hôn vì tình trạng bệnh lý nhưng lại bị ngược đãi, hành hạ về mặt thể xác và tinh thần. Đây là cơ chế nhân văn, thể hiện sự can thiệp mạnh mẽ của pháp luật để bảo vệ tính mạng và sức khỏe của công dân.
2. Khi nào vợ, chồng, cha mẹ hoặc người thân tích khác được yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đơn phương?
Điều 56 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: Khi vợ hoặc chồng có yêu cầu ly hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà hòa giải không thành thì tòa án sẽ phải giải quyết ly hôn nếu xét thấy có đầy đủ căn cứ về việc vợ chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ vợ chồng khiến cho cuộc hôn nhân rơi vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng và đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không thể đạt được.
Có thể nói, ly hôn đơn phương được xem là thủ tục xuất phát từ ý nguyện của một bên vợ chồng trong quan hệ hôn nhân. Và nếu muốn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền là tòa án chấp nhận, ra quyết định hoặc bản án ly hôn thì vợ hoặc chồng phải chứng minh được người còn lại có hành vi vi phạm quy định của pháp luật trong hôn nhân gia đình. Đó là:
- Có hành vi bạo lực gia đình (những hành vi được liệt kê tại khoản 1 Điều 3 của Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2022);
- Có hành vi vi phạm nghiêm trọng về quyền lợi của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân làm cho đời sống hôn nhân trở nên căng thẳng, mục đích hôn nhân hạnh phúc không thể đạt được.
Vợ, chồng, cha mẹ hoặc người thân tích khác nộp đơn yêu cầu ly hôn đơn phương sẽ không được giải quyết khi thuộc một trong những trường hợp sau:
- Không có căn cứ về việc vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng;
- Có căn cứ về việc vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền/nghĩa vụ của vợ chồng, tuy nhiên hành vi đó không làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được;
- Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi;
- Vợ hoặc chồng mất tích nhưng chưa có tuyên bố mất tích thì Tòa án cũng sẽ không giải quyết cho ly hôn.
Trong trường hợp đặc biệt: Khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng sẽ không giải quyết nếu thuộc một trong hai trường hợp sau:
- Người yêu cầu ly hôn không phải là cha, mẹ hoặc người thân thích khác của người bị bệnh;
- Không có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người bị bệnh.
3. Người chồng bị hạn chế quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đơn phương trong trường hợp nào?
Quyền yêu cầu ly hôn là bình đẳng đối với cả vợ và chồng. Trong suốt thời kỳ hôn nhân, nếu có căn cứ ly hôn thì hai bên vợ chồng đều có quyền ly hôn như nhau, không ai được cưỡng ép hoặc lừa dối hoặc cản trở.
Tuy nhiên xuất phát từ nguyên tắc giúp đỡ bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ, Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về hạn chế quyền ly hôn của người chồng trong một số trường hợp cụ thể sau:
3.1. Trường hợp người chồng bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn khi người vợ đang có thai:
- Việc xác định trạng thái có thai của người vợ dựa trên cơ sở sinh học thông qua quá trình thụ thai và phát triển của chúng để hình thành nên thai nhi. Do sự phát triển vượt bậc của y học nên con người đã can thiệp vào quá trình thụ tinh;
- Đối với trường hợp người phụ nữ mang thai là kết quả của quá trình tự nhiên thì việc xác định người phụ nữ đang mang thai có thể dựa trên các yếu tố sinh học như cơ thể người phụ nữ đang có những biến đổi nhất định, trọng lượng cơ thể tăng nhanh, phân bộ phát triển do chứa đựng bao thai … hay dựa vào kết quả y khoa;
- Đối với những trường hợp người vợ không thể mang thai vì một lý do nào đó nên nhờ người khác mang thai hộ thì việc hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng không được áp dụng, vì lúc này người vợ trong cặp vợ chồng đó không ở trong tình trạng đang mang thai;
- Điều 2 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP: “Người vợ đang có thai” là khoảng thời gian vợ mang trong mình bào thai và được cơ sở y tế có thẩm quyền xác định cho đến thời điểm sinh con hoặc thời điểm đình chỉ thai nghén.
3.2. Trường hợp người chồng bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn khi sự kiện sinh đẻ của người vợ chưa đủ 12 tháng:
Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định bổ sung trường hợp người chồng bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn khi người vợ sinh con do vấn đề này ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và tinh thần của người vợ. Có những trường hợp người vợ sinh con nhưng không được nuôi con, xuất phát từ lý do đứa trẻ qua đời khi chưa đủ 12 tháng tuổi.
Người vợ về tâm sinh lý và thể chất khi ấy đều trong trạng thái hết sức nhạy cảm, việc xin ly hôn của người chồng vào thời điểm này có thể gây ra suy giảm sức khỏe về cả thể xác và tinh thần, có khả năng ảnh hưởng đến tính mạng.
Theo Điều 2 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP, sự kiện sinh đẻ của người vợ được xác định khi thuộc một trong những trường hợp sau:
- Vợ đã sinh con nhưng không nuôi con trong khoảng thời gian từ khi sinh con đến khi con dưới 12 tháng tuổi;
- Vợ đã sinh con nhưng con chết trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tuổi kể từ khi sinh con;
- Vợ có thai từ 22 tuần tuổi trở lên mà phải đình chỉ thai nghén.
3.3. Trường hợp người chồng bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn khi người vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi:
- Không chỉ riêng đối với người mẹ mà những đứa trẻ trong khoảng thời gian 01 năm đầu đời cũng rất cần có sự yêu thương và chăm sóc của người cha;
- Pháp luật hôn nhân gia đình hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của vợ chồng trong trường hợp này mà không phân biệt người con dưới 12 tháng tuổi là con chung hay con riêng, con đẻ hay con nuôi của một bên vợ/chồng;
- Việc áp dụng Điều 51 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 cho tất cả các trường hợp sinh đẻ tự nhiên, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo cũng như nhận nuôi con nuôi sơ sinh là phù hợp, từ đó tránh cách hiểu có sự đối xử phân biệt trong trường hợp sinh đẻ tự nhiên với mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và trường hợp nhận nuôi con nuôi.
4. Trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù, đang ở nước ngoài có quyền yêu cầu không?
Pháp luật Việt Nam không hạn chế quyền yêu cầu ly hôn đối với người đang chấp hành hình phạt tù hoặc cư trú ở nước ngoài.
Đây là quyền nhân thân được pháp luật bảo vệ và tôn trọng. Tuy nhiên, cách thức thực hiện sẽ khác so với những cá nhân có mặt tại nơi cư trú thông thường. Cụ thể như sau:
4.1. Người đang chấp hành hình phạt tù:
- Người đang thi hành án phạt tù vẫn có quyền nộp đơn yêu cầu ly hôn đơn phương theo Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 khi có đầy đủ căn cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là hợp pháp.
Cách thực hiện:
- Soạn đơn yêu cầu ly hôn và gửi qua cơ quan quản lý trại giam để chuyển đến Tòa án có thẩm quyền;
- Tham gia phiên hòa giải hoặc xét xử tại Tòa án: Tòa án có thể tổ chức lấy lời khai, hòa giải tại trại giam hoặc qua ủy thác tố tụng theo thủ tục chung quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Lưu ý: Người đang chấp hành án không được ủy quyền cho người khác thay mình ly hôn vì đây là quyền nhân thân không thể chuyển giao (khoản 4 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).
4.2. Người đang ở nước ngoài:
- Nếu là công dân Việt Nam ở nước ngoài hoặc có vợ/chồng là người nước ngoài thì vẫn có quyền yêu cầu Tòa án Việt Nam giải quyết ly hôn theo quy định về thẩm quyền tại Điều 127 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
Cách thực hiện:
- Nộp đơn trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến Tòa án nhân dân cấp tỉnh (đối với vụ việc có yếu tố nước ngoài);
- Có thể tham gia tố tụng thông qua ủy quyền cho Luật sư tại Việt Nam để nhận thông báo, nộp tài liệu tuy nhiên không được ủy quyền cho người khác thay mình yêu cầu ly hôn;
- Phiên tòa có thể xét xử vắng mặt đương sự trong trường hợp có đơn yêu càu xét xử vắng mặtvà cung cấp đầy đủ chứng cứ kèm theo.
5. Phải chịu hệ quả pháp lý gì nếu đơn yêu cầu ly hôn đơn phương do người không có quyền nộp?
Việc nộp đơn yêu cầu ly hôn đơn phương không đúng chủ thể sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý sau:
5.1. Tòa án từ chối thụ lý hoặc trả lại đơn:
- Theo Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, nếu người khởi kiện không có quyền yêu cầu theo quy định của pháp luật thì Tòa án sẽ trả lại đơn hoặc không thụ lý vụ án;
- Điều này gây mất thời gian, từ đó kéo dài và làm chậm trễ quá trình giải quyết ly hôn.
5.2. Ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người thực sự có quyền:
- Việc nộp đơn sai có thể kéo dài thời gian và khiến người thực sự có quyền yêu cầu ly hôn phải tiến hành thủ tục lại từ đầu;
- Từ đó làm phát sinh chi phí và ảnh hưởng đến các vấn đề liên quan như nuôi con, phân chia tài sản…
5.3. Cách khắc phục:
- Xác định đúng chủ thể trước khi nộp đơn: vợ, chồng hoặc cha, mẹ, người thân thích khác trong trường hợp đặc biệt (khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân gia đình 2014);
- Trong trường hợpđã nộp đơn sai thì người nộp có thể rút đơn và hướng dẫn người có quyền thực hiện đúng thủ tục luật định.
THAM KHẢO THÊM: