Pháp luật về xử lý vật chứng theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Thẩm quyền xử lý vật chứng. Các hình thức xử lý vật chứng hiện nay.
Mục lục bài viết
1. Về thẩm quyền xử lý vật chứng:
Thẩm quyền xử lý vật chứng được quy định tại khoản 1 Điều 106 BLTTHS năm 2015: “Việc xử lý vật chứng do Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố; do Chánh án Tòa án quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn chuẩn bị xét xử; do Hội đồng xét xử quyết định nếu vụ án đã đưa ra xét xử. Việc thi hành quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản”.
So sánh với quy định về thẩm quyền xử lý vật chứng của BLTTHS năm 2003 có thể thấy, về cơ bản BLTTHS năm 2015 giữ nguyên quy định của BLTTHS năm 2003, chỉ bổ sung thẩm quyền xử lý vật chứng của Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Xuất phát từ thực tế, các cơ quan này cũng có thẩm quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành hoạt động điều tra trong một số trường hợp theo luật định, khi vụ án bị đình chỉ trong giai đoạn điều tra, các cơ quan này là chủ thể thực hiện việc xử lý vật chứng đã thu giữ trước đó.
– Thẩm quyền xử lý vật chứng của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
Căn cứ quy định tại Điều 106 BLTTHS năm 2015, trên cơ sở đối chiếu với các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra (Điều 36 BLTTHS năm 2015), Điều tra viên (Điều 37 BLTTHS năm 2015), Cán bộ điều tra của cơ quan điều tra (Điều 38 BLTTHS năm 2015) và các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 39, 40 BLTTHS năm 2015) có thể thấy: Quyết định xử lý vật chứng là nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng Cơ quan điều tra khi tiến hành TTHS; khi được phân công tiến hành việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra có thẩm quyền Quyết định việc xử lý vật chứng (khoản 3 Điều 36 BLTTHS năm 2015). Điều tra viên có trách nhiệm thi hành quyết định xử lý vật chứng của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra ban hành.
Đối với các Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tuy Điều 106 khi quy định về thẩm quyền xử lý vật chứng có quy định thẩm quyền xử lý vật chứng của các cơ quan này. Tuy nhiên, trong Điều luật cụ thể quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan này lại không có quy định nhiệm vụ, quyền hạn xử lý vật chứng. Đồng thời luật cũng quy định rõ, thẩm quyền xử lý vật chứng là của Cơ quan điều tra và các Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra.
Nếu vụ án không được đình chỉ mà tiếp tục được truy tố, xét xử thì Cơ quan điều tra và các Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có thẩm quyền xử lý vật chứng với đầy đủ tất cả các hình thức xử lý vật chứng. Trong quá trình điều tra các cơ quan này chỉ có quyền trả lại ngay vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án; bán theo quy định của pháp luật đối với những vật chứng mau hỏng hoặc khó bảo quản; giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật ngay sau khi có kết luận giám định đối với vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai. Đối với các quyết định xử lý vật chứng của Cơ quan điều tra và Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền hủy bỏ các quyết định này.
– Thẩm quyền xử lý vật chứng của Viện kiểm sát
Căn cứ quy định tại Điều 106 BLTTHS năm 2015, trên cơ sở đối chiếu với các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát , Kiểm sát viên, Kiểm tra viên có thể thấy: Quyết định xử lý vật chứng là nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát khi khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động TTHS. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động TTHS có thẩm quyền quyết định việc xử lý vật chứng (khoản 3 Điều 41 BLTTHS năm 2015). BLTTHS năm 2015 không quy định trách nhiệm thi hành quyết định xử lý vật chứng của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát là của Kiểm sát viên.
Trong khi đó, quy định rõ trách nhiệm thi hành quyết định xử lý vật chứng do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra ban hành là của Điều tra viên. Việc không quy định này không phải là thiếu sót của BLTTHS mà xuất phát từ quy định về bảo quản vật chứng (Điều 90 BLTTHS năm 2015, theo đó: trong giai đoạn điều tra, truy tố cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm bảo quản vật chứng.
Đồng thời, các quy định của BLTTHS cũng chỉ rõ Cơ quan điều tra có trách nhiệm thi hành các quyết định của Viện kiểm sát. Kiểm sát viên có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát.
Do đó, có thể suy luận trách nhiệm thi hành quyết định về xử lý vật chứng của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát là của Kiểm sát viên và của Cơ quan điều tra. Viện kiểm sát có thẩm quyền xử lý vật chứng đối với các vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố, nếu vụ án không được đình chỉ ở giai đoạn truy tố mà tiếp tục được xét xử thì Viện kiểm sát không có thẩm quyền xử lý vật chứng với đầy đủ tất cả các hình thức xử lý vật chứng mà chỉ có quyền trả lại ngay vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án; bán theo quy định của pháp luật đối với những vật chứng mau hỏng hoặc khó bảo quản; giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật ngay sau khi có kết luận giám định đối với vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai.
– Thẩm quyền xử lý vật chứng của Chánh án Tòa án
Căn cứ quy định tại Điều 106 BLTTHS năm 2015, trên cơ sở đối chiếu với các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án có thể thấy: Quyết định xử lý vật chứng là nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án Tòa án khi tiến hành giải quyết vụ án hình sự. Phó Chánh án Tòa án khi được phân công giải quyết vụ án hình sự có thẩm quyền quyết định việc xử lý vật chứng.
Việc thi hành quyết định xử lý vật chứng của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án ban hành cũng không được BLTTHS năm 2015 quy định rõ thuộc trách nhiệm của cá nhân hay cơ quan nào. Xuất phát từ quy định về bảo quản vật chứng, theo đó: trong giai đoạn xét xử cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm bảo quản vật chứng. Đồng thời luật Thi hành án dân sự cũng quy định, Cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm thi hành xử lý vật chứng trong quyết định hình sự của Tòa án (Điều 1
Đồng thời, quy định của BLTTHS cũng chỉ rõ Thẩm phán có nhiệm vụ tiến hành hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công của Chánh án Tòa án (Điều 45 BLTTHS năm 2015). Do đó, có thể suy luận trách nhiệm thi hành quyết định xử lý vật chứng của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án là của Thẩm phán và của Cơ quan thi hành án dân sự. Chánh án Tòa án, Phó Chánh án Tòa án có thẩm quyền xử lý vật chứng đối với các vụ án được đình chỉ ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu vụ án không được đình chỉ ở giai đoạn chuẩn bị xét xử mà được đưa ra xét xử thì Chánh án, Phó Chánh án Tòa án không có thẩm quyền xử lý vật chứng với đầy đủ tất cả các hình thức xử lý vật chứng mà chỉ có quyền trả lại ngay vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án; bán theo quy định của pháp luật đối với những vật chứng mau hỏng hoặc khó bảo quản; giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật ngay sau khi có kết luận giám định đối với vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai.
– Thẩm quyền xử lý vật chứng của Hội đồng xét xử
Khoản 1 Điều 106 BLTTHS năm 2015 quy định rõ việc xử lý vật chứng do Hội đồng xét xử quyết định nếu vụ án đã đưa ra xét xử. Vụ án hình sự được coi là đã đưa ra xét xử khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Kể từ thời điểm quyết định đưa vụ án ra xét xử được ban hành thành phần Hội đồng xét xử đã được xác rõ thì mọi hoạt động tiến hành tố tụng tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án phải do Hội đồng xét xử quyết định. Việc thi hành quyết định xử lý vật chứng của Hội đồng xét xử là trách nhiệm của Cơ quan thi hành án dân sự theo quy định tại Điều 1 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014).
Giải quyết vụ án thông qua hình thức mở phiên tòa là hoạt động tố tụng mang tính công khai, minh bạch, Hội đồng xét xử xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác để đưa ra phán quyết phù hợp, giải quyết toàn diện, triệt để vụ án, trong đó có nội dung về xử lý vật chứng. Khác với việc xử lý vật chứng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Chánh án Tòa án, việc xử lý vật chứng của Hội đồng xét xử là triệt để, toàn diện nhất. Việc xử lý vật chứng của Hội đồng xét xử luôn được bao gồm đầy đủ tất cả các hình thức xử lý vật chứng đã được BLTTHS năm 2015 quy định.
2. Về các hình thức xử lý vật chứng:
BLTTHS năm 2015 quy định về các hình thức xử lý vật chứng gồm có: tịch thu nộp ngân sách nhà nước; trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp; tịch thu và tiêu hủy; bán theo quy định của pháp luật, không bán được thì thì tiêu hủy; giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý. Quy định của BLTTHS năm 2015 về các hình thức xử lý vật chứng là kết quả sự kế thừa từ quy định tại Điều 76 của BLTTHS năm 2003 với một số sửa đổi, cụ thể các hình thức xử lý vật chứng như sau:
– Tịch thu nộp ngân sách nhà nước
Là hình thức xử lý được áp dụng đối với vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành; vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có.
+ Công cụ phạm tội là dạng cụ thể của phương tiện phạm tội được chủ thể sử dụng tác động đến đối tượng tác động của tội phạm. Phương tiện phạm tội là đối tượng vật chất được chủ thể của tội phạm sử dụng trợ giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội. Phương tiện phạm tội có nhiều dạng khác nhau trong đó có dạng được coi là công cụ phạm tội. Lý luận và thực tiễn tố tụng cũng thừa nhận, chỉ đặt ra vấn đề công cụ, phương tiện phạm tội ở những tội được thực hiện với lỗi cố ý, ở những tội có lỗi vô ý, người phạm tội không mong muốn tội phạm xảy ra nên không đặt vấn đề họ “sử dụng” đối tượng vật chất trợ giúp cho việc thực hiện tội phạm.
Những vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội trong các vụ án thường gặp như cố ý gây thương tích, cướp giật, đánh bạc, tổ chức đánh bạc, chứa mại dâm là dao, súng, đạn, mìn, gậy, … hoặc là những phương tiện giao thông như xe máy, xe ô tô, xe đạp, … phương tiện thông tin như điện thoại, bộ đàm, … hoặc những bất động sản được sử dụng vào việc phạm tội như ngôi nhà, phòng trọ,… Việc tịch thu nộp ngân sách nhà nước đối với vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội là phù hợp, bởi lẽ đây là những đối tượng vật chất được người phạm tội sử dụng một cách có ý thức, có chủ đích trợ giúp, phục vụ cho việc thực hiện tội phạm; đồng thời đây còn là việc áp dụng biện pháp tư pháp theo quy định của BLHS, qua đó thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật hình sự đối với người phạm tội, đồng thời làm lợi cho ngân sách nhà nước.
+ Vật cấm tàng trữ, lưu hành hiện chưa có quy định cụ thể thế nào là vật cấm tàng trữ, lưu hành. Nên có quan điểm cho rằng, vật cấm tàng trữ, lưu hành bao gồm các vật mà hành vi tàng trữ, lưu hành các vật ấy là tội phạm. Quan điểm khác cho rằng, vật cấm tàng trữ, lưu hành là các loại hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh theo quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện được bổ sung theo
+ Tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có là vật, tiền bạc người phạm tội có được ngay sau khi thực hiện hành vi phạm tội hoặc là vật, tiền bạc sau khi định đoạt những vật, tiền bạc đã chiếm đoạt. Có thể thường gặp gồm: vật, tiền bạc là đối tượng của tội phạm như tội trộm cắp tài sản, buôn lậu, tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới hoặc là vật, tiền bạc do mua bán, trao đổi những thứ ấy mà có. Tiền bạc, tài sản do phạm tội mà có cũng có thể là tiền bạc, tài sản được sinh lời từ việc sử dụng tài sản, tiền bạc vào việc phạm tội hay tài sản, tiền bạc chiếm đoạt được của người khác.
Ví dụ: trộm cắp tiền của người khác, sau đó gửi Ngân hàng, số lãi từ khoản tiền gửi này được coi là tiền bạc do phạm tội mà có; dùng tiền trộm cắp được mua vé số và trúng thưởng, khoản tiền trúng số là tài sản do phạm tội mà có; mua bán ma túy có được lợi nhuận, dùng lợi nhuận đó mua bất động sản thì bất động sản là tài sản do phạm tội mà có.
– Tịch thu tiêu hủy
Là hình thức xử lý được áp dụng đối với vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành; vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được; vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản mà có thể được bán theo quy định của pháp luật nhưng không bán được.
+ Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành xuất hiện trong 02 hình thức tịch thu sung quỹ nhà nước và tịch tịch thu tiêu hủy.
+ Vật chứng không có giá trị là vật không có giá trị sử dụng và không có giá trị trao đổi. Giá trị sử dụng nghĩa là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn một nhu cầu sản xuất hay tiêu dùng nào đó của con người, còn giá trị trao đổi nghĩa là hình thức biểu hiện của giá trị, thể hiện ở tỷ lệ trao đổi giữa hàng hóa này với hàng hóa khác.
+ Vật không sử dụng được có thể là các vật đã hỏng hóc, hư hại mất đi cơ bản tính năng, tác dụng, công dụng ban đầu. Nó có thể là hàng hóa đã hết hạn sử dụng, là quần áo đã cũ rách, nhưng cũng có thể là chiếc điện thoại hỏng, chiếc xe mô tô bị hư hại, biến dạng, tuy không sử dụng được nhưng vẫn có thể có giá trị quy đổi thành tiền.
– Trả lại ngay vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án
Khoản 3 Điều 76 BLTTHS năm 2003 chỉ đề cập đến việc trả lại các vật chứng là vật, tiền bạc thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội. Thực tiễn tố tụng cho thấy, nhiều trường hợp vật chứng không là vật, tiền bạc thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội nhưng vẫn cần phải trả lại cho chủ sở hữu nếu không ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án, chẳng hạn: vật chứng là vật mang dấu vết tội phạm như xe ô tô, mô tô có dấu vết va chạm trong các vụ án “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tài sản, đồ vật thuộc sở hữu của người khác tuy không phải là đối tượng của tội phạm nhưng lại có vết máu hoặc vân tay của người phạm tội …
Sau khi đã tiến hành các biện pháp thu thập, bảo quản và đánh giá được đầy đủ các thông tin đem lại, việc trả lại vật chứng trong các trường hợp này cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp là thỏa đáng, nhưng khoản 3 Điều 76 BLTTHS năm 2003 lại không quy định trường hợp này được trả lại. Khắc phục điểm chưa hợp lý của BLTTHS năm 2003, quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS 2015 đã cho phép trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp tất cả các loại vật chứng nếu đáp ứng đầy đủ điều kiện là không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án. Quy định mới này là sự thể hiện rõ nét nguyên tắc bảo hộ quyền sở hữu tài sản của công dân được ghi Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật dân sự năm 2015.
– Bán theo quy định của pháp luật
Là hình thức xử lý vật chứng được áp dụng đối với vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản. Kể từ khi BLTTHS năm 2015 được ban hành chưa có văn bản hướng dẫn xác định thế nào là vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản và quy trình bán những tài sản này như thế nào là đúng theo quy định. Thực chất, đây cũng không phải là hình thức xử lý vật chứng triệt để, do đó việc bản quản số tiền thu được sau khi bán những vật chứng này thế nào cũng là vấn đề còn nhiều quan điểm khác nhau. Tại mục 6, 7 của Thông tư liên tịch số 06/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTC-BTP ngày 24/10/1998 hướng dẫn một số vấn đề về bảo quản và xử lý tài sản là vật chứng, tài sản bị kê biên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự có hướng dẫn như sau: Đối với vật chứng là tài sản thuộc loại mau hỏng (như rau, quả, thực phẩm tươi sống, hóa chất …), thì cơ quan thu giữ tiến hành lập biên bản ghi rõ tình trạng vật chứng đó, tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật và gửi tiền vào tài khoản tạm giữ mở tại Kho bạc Nhà nước, đồng thời thông báo cho Viện kiểm sát, Tòa án, cơ quan tài chính cùng cấp và chủ sở hữu tài sản (nếu biết).
Đối với vật chứng là tài sản thuộc loại có quy định thời hạn sử dụng ngắn, tài sản đã gần hết hạn sử dụng hoặc việc bảo quản gặp khó khăn, thì tùy từng trường hợp cụ thể và căn cứ vào hiện trạng vật chứng, sau khi trao đổi thông nhất ý kiến với Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan tài chính cấp, cơ quan đang bảo quản tài sản lập Hội đồng tổ chức bán đấu giá vật chứng đó và gửi số tiền thu được vào tài khoản tạm giữ mở tại Kho bạc Nhà nước, đồng thời thông báo cho chủ sở hữu tài sản (nếu biết).
Như vậy, thông tư đã có hướng dẫn cụ thể hơn về hàng hóa thuộc loại mau hỏng và khó bảo quản, theo hướng dẫn của thông tư việc bán các vật chứng này phải thực hiện theo thủ tục bán đấu giá. Thủ tục bán đấu giá được thông tư này dẫn chiếu đến Quy chế bán đấu giá tài sản được ban hành kèm theo Nghị định số 86/CP ngày 19/12/1996 của Chính phủ, đến nay,
Nghị định này đã hết hiệu lực. Hiện nay, việc bán đấu giá tài sản được thực hiện theo quy định của
Quy trình bán đấu giá theo quy định của Luật bán đấu giá năm 2016 khá phức tạp, liệu có phải là giải pháp phù hợp để bán vật chứng thuộc loại mau hỏng hay không. Thông tư số 173/2013/TT-BTC ngày 20/11/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số nội dung về quản lý, xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành chính có quy định rõ về hàng hoá, vật phẩm dễ bị hư hỏng bao gồm: Thực phẩm tươi sống, dễ bị ôi thiu, khó bảo quản, hàng hóa dễ cháy, nổ (xăng, dầu, khí hóa lỏng và các chất dễ cháy, nổ khác); thuốc chữa bệnh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật mà hạn sử dụng còn dưới 60 ngày theo hạn ghi trên bao bì, nhãn hàng; thực phẩm đã qua chế biến và các loại hàng hóa khác mà hạn sử dụng còn dưới 30 ngày theo hạn ghi trên bao bì, nhãn hàng; hàng hóa có tính chất thời vụ (hàng tiêu dùng theo mùa, phục vụ lễ, tết), hàng điện tử cao cấp (các loại máy tính bảng, điện thoại thông minh) và các loại hàng hoá, vật phẩm khác nếu không xử lý ngay sau khi có quyết định tạm giữ hoặc quyết định tịch thu sẽ bị hư hỏng, không bán được hoặc hết thời hạn sử dụng. Đồng thời, thông tư này cũng quy định có thể bán trực tiếp tang vật vi phạm hành chính là hàng hoá, vật phẩm dễ bị hư hỏng mà không cần thông qua hình thức bán đấu giá.
– Giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai ngay sau khi có kết luận giám định.
Đây là quy định hoàn mới so với quy định của BLTTHS năm 2003 về xử lý vật chứng. Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã (Điều 234) và tội Nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại (Điều 246). Đối với vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lại do đặc thù của những vật chứng này, nếu không xử lý theo quy trình thông thường sẽ không phù hợp. Cần thiết phải có sự tham gia của các cơ quan chuyên môn. Tại Điều 7 Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP ngày 05/11/2018 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng Điều 234 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã và Điều 244 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm của Bộ luật Hình sự đã quy định về xử lý vật chứng đối với vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm hoặc sản phẩm của chúng được thực hiện như sau:
Vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm còn sống thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành để trả về tự nhiên, giao cho trung tâm cứu hộ, khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia hoặc giao cho cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Vật chứng là cá thể động vật chết hoặc sản phẩm động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc loại mau hỏng, khó bảo quản thì tiêu hủy hoặc giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
Vật chứng khác không thuộc 02 trường hợp hướng dẫn trên thì tịch thu hoặc tiêu hủy theo quy định của pháp luật.
3. Một số quy định khác liên quan đến xử lý vật chứng:
– Việc trả lại đồ vật, tài liệu không phải là vật chứng
Điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS năm 2015 quy định “Trả lại ngay tài sản đã thu giữ, tạm giữ nhưng không phải là vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản đó”. Đây là quy định mới so với quy định tại Điều 76 BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên lại phù hợp với hướng dẫn của thông tư liên tịch số 06, quá trình tiến hành tố tụng ở giai đoạn đầu, cơ quan có thẩm quyền phải thu thập nhiều tài liệu, đồ vật để có cơ sở giải quyết vụ án, cũng có thể do có sơ suất khi sàng lọc chứng cứ nên đã thu thập những đồ vật, tài sản không phải là vật chứng.
Tuy nhiên, chỉ có vật chứng mới là nguồn của chứng cứ, có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự, còn những đồ vật, tài sản không phải là vật chứng sẽ không có giá trị chứng minh trong vụ án. Với quy định nêu trên, trường hợp đã thu giữ, tạm giữ những đồ vật, tài sản không phải là vật chứng thì tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà CQĐT, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS, Tòa án phải trả lại ngay cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Ở đây cần lưu ý, trong một số vụ án người phạm tội có thể bị tịch thu tài sản, bị buộc thực hiện nghĩa vụ bồi thường, các cơ quan tố tụng đã tạm giữ tài sản của người phạm tội (hoặc có thể kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản) mặc dù tài sản này không phải là vật chứng nhưng cũng không trả lại cho người phạm tội vì họ có thể sẽ tẩu tán tài sản, gây khó khăn cho công tác thi hành án. Việc trả lại tài sản cho người phạm tội hay không trong trường hợp này, theo tác giả nên để HĐXX quyết định trong bản án.
– Việc giải quyết tranh chấp quyền sở hữu đối với vật chứng
Khoản 4 Điều 106 BLTTHS 2015 giữ nguyên như quy định tại khoản 4 Điều 76 BLTTHS 2003: “Trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng thì giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự”. Giải quyết vấn đề này, trước đây cũng đã có hai quan điểm: Quan điểm thứ nhất cho rằng, tùy từng giai đoạn tố tụng, cơ quan nào đang thụ lý vụ án thì phải xác minh chủ sở hữu hợp pháp để trả lại vật chứng cho chủ sở hữu, quan điểm thứ hai cho rằng, giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự, tức là người liên quan phải khởi kiện bằng vụ án dân sự để tòa án giải quyết chứ không giải quyết chung với vụ án hình sự.
Quy định trên có nghĩa là, sau khi các chủ thể có thẩm quyền xử lý vật chứng theo các cách thức quy định tại khoản 2, 3 Điều 106 BLTTHS; hoặc khi vật chứng đang được tạm giữ, chưa được xử lý mà các bên liên quan phát sinh tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng, thì sẽ áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự để giải quyết. Vì vậy, tùy từng trường hợp mà xử lý như sau:
Nếu đang trong quá trình giải quyết vụ án mà có tranh chấp, thì cơ quan tố tụng đang thụ lý vụ án cần yêu cầu người liên quan cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền sở hữu đối với vật chứng. Trên cơ sở đó, chủ thể có thẩm quyền xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.
Nếu sau khi vật chứng đã được xử lý và phát sinh tranh chấp, thì người liên quan sẽ khởi kiện bằng vụ án dân sự, chứ không coi đây là căn cứ để khiếu nại giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án về phần xử lý vật chứng, có như vậy mới đảm bảo được tính ổn định của bản án, quyết định hình sự; mặt khác, tạo điều kiện cho các bên liên quan có đủ thời gian, điều kiện để bảo vệ quyền lợi của mình trong vụ kiện dân sự.