Cả nam và nữ đều có quyền bình đẳng trong việc kết hôn, trong quan hệ vợ chồng và các quan hệ khác theo pháp luật và phải tuân thủ các điều kiện được quy định trong pháp luật hôn nhân và gia đình.
Mục lục bài viết
1. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong kết hôn:
Quyền kết hôn là quyền nhân thân gắn liền với của chủ thể và không thể chuyển giao cho người khác. Có thể thấy quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân đầu tiên được đề cập trong Điều 16 UDHR : Nam và nữ khi đủ tuổi đều có quyền kết hôn và xây dựng gia đình mà không có bất kỳ sự hạn chế nào về chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam và nữ có Quyền bình đẳng trong việc kết hôn, trong thời gian chung sống và khi ly hôn. Việc kết hôn chỉ được tiến hành với sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cặp vợ chồng tương lai (Khoản 1 và 2). Khoản 3 Điều này cũng khẳng định, gia đình là tế bào tự nhiên và cơ bản của xã hội, được nhà nước và xã hội bảo vệ”.
Nhằm cụ thể hóa điều đó, Hiến pháp năm 2013 đã quy định “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau”, cùng với đó bộ luật dân sự năm 2015 cũng có quy định: “Cá nhân có quyền kết hôn...”. Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, khi muốn thực hiện quyền kết hôn của mình thì phụ nữ cần phải đáp ứng các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014 về điều kiện kết hôn cụ thể như sau: “1.a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;”.
Ngoài các điều kiện trên, pháp luật cũng đưa ra các trường hợp cấm kết hôn, theo đó bao gồm những hành vi: kết hôn giả tạo, tảo hôn, cưỡng ép, lừa dối, cản trở việc kết hôn,...Ngoài ra việc kết hôn cũng không được có sự phân biệt đối xử, quyền kết hôn không phụ thuộc vào địa vị, thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo và quốc tịch... Việc pháp luật quy định các điều cấm này nhằm bảo vệ chế độ hôn nhân gia đình. Hôn nhân phải xuất phát trên cơ sở tự nguyện, không bị thúc ép, bắt buộc bởi bất kỳ một bên thứ ba nào khác.
Như vậy cả nam và nữ đều có quyền kết hôn theo pháp luật và phải tuân thủ các điều kiện được quy định khi thực hiện việc kết hôn. Để đảm bảo quyền lợi của các bên trong đó có quyền của phụ nữ ngoài các quy định về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn pháp luật HN&GĐ còn quy định về các chế tài cần thiết để bảo vệ quyền kết hôn của phụ nữ theo quy định tại Điều 10 LHN&GĐ năm 2014, và Khoản 1 Điều 29 Bộ Luật TTDS năm 2015. Như vậy có thể thấy pháp luật luôn đảm bảo quyền kết hôn của phụ nữ nói riêng cũng như quyền kết hôn của nam giới nói chung được thực hiện một cách có hiệu quả.
2. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong quan hệ vợ và chồng:
Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng được ghi nhận đầu tiên trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta từ Sắc lệnh số 97–SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật và đồng thời đây cũng là một nguyên tắc trong luật HN&GĐ, theo đó sắc lệnh đã cụ thể hóa về Quyền bình đẳng của vợ và chồng trong hôn nhân gia đình, theo đó “Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình” theo Điều 5 Sắc lệnh, cùng với đó là đảm bảo quyền tự do kết hôn cho hai bên nam nữ, trong thời kỳ tang chế vẫn có thể lấy chồng được...những quy định trên đã thể hiện sự quan tâm của nhà nước đến Quyền bình đẳng của phụ nữ trong HN&GĐ từ những ngày đầu, điều này có ý nghĩa to lớn trong việc mở ra quy định về các Quyền bình đẳng về nhân thân, tài sản, con cái, các quyền và nghĩa vụ của người phụ nữ trong các quy phạm pháp luật sau này.
Thứ nhất, quyền nhân thân. Quyền nhân thân trong HN&GĐ có thể hiểu là quyền của cá nhân theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 17, Luật HN&GĐ năm 2014 về Bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng theo đó: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân.”, và Quyền bình đẳng về quyền nghĩa vụ giữa vợ và chồng cũng chính là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ. Trong quan hệ nhân thân trong hôn nhân gia đình trước hết đó là quyền của người vợ được nhận được sự thương yêu, chung thủy, nội dung này được quy định tại Điều 19 của Luật HN&GĐ: “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.”, từ quy định này thể hiện vị trí và vai trò bình đẳng như nhau giữa vợ và chồng và không có sự phân biệt về vị trí, vai trò của mỗi thành viên trong gia đình.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 19, vợ chồng cũng có quyền và nghĩa vụ phải tạo lập cuộc sống chung, xây dựng gia đình, quy định này cũng nhằm đảm bảo lợi ích của các bên trong đó có quyền của phụ nữ, tránh hôn nhân giả tạo cũng như cùng nhau san sẻ các công việc gia đình. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp vì lý do nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác thì pháp luật cũng cho phép vợ, chồng có thể không sống chung với nhau.
Tiếp theo đó là quyền được chăm sóc, giúp đỡ và tôn trọng lẫn nhau, đó là sự quan tâm, lắng nghe và thấu hiểu. Vợ chồng cùng phải có ý thức quan tâm và chăm sóc lẫn nhau cả về vật chất lẫn tinh thần, chăm lo cho gia đình, bảo đảm cho gia đình tồn tại và phát triển theo đúng mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra trên tinh thần “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững”. Mọi hành vi ngược đãi, xúc phạm danh dự nhân phẩm đều bị pháp luật nghiêm cấm và có các chế tài xử lý. Trong Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 cũng có các quy định về các hành vi bạo lực trong đó có các hành vi vi phạm quyền được chăm sóc tôn trọng lẫn nhau như: “ Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng; b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng…”
Thứ hai, về quyền tài sản. Trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng có mối quan hệ bình đẳng với nhau. Theo Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2014, trước khi kết hôn vợ chồng có thể lựa chọn chế độ tài tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Nếu hai bên có thỏa thuận thì phải lập thành văn bản và có công chứng chứng thực, nếu các bên không có thỏa thuận thì áp dụng chế độ tài sản theo luật định, điều này cho thấy sự tôn trọng của pháp luật với thỏa thuận của hai bên vợ chồng đồng thời cũng bảo vệ lợi ích chung của gia đình và của người thứ ba.
Một là, tài sản riêng của vợ và chồng được quy định tại điều 43, Luật HN&GĐ 2014, quy định về tài sản riêng như sau: “1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.” Như vậy có thể thấy người vợ hoàn toàn có quyền độc lập và toàn quyền quyết định việc chiếm hữu định đoạt tài sản riêng của mình. Pháp LHN&GĐ cũng quy định người vợ có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng của mình vào tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 44 của Luật HN&GĐ. Các quy định như vậy sẽ giúp đảm bảo được lợi ích của các bên trong thời kỳ hôn nhân cũng như sau khi quan hệ hôn nhân đã không còn nữa, đảm bảo sự độc lập và không bị phụ thuộc của người phụ nữ.
Hai là, về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Sau khi kết hôn cả hai sẽ cùng chung sống và cùng đóng góp công sức để tạo dựng tài sản chung nhằm đảm bảo đời sống chung của cả gia đình. Điểm mới của luật HN&GĐ năm 2014 như đã nêu ở trên các bên có thể thỏa thuận về chế độ tài sản theo quy định tại các điều từ điều 47 đến điều 50 hoặc khi các bên không thỏa thuận thì áp dụng chế độ theo luật định từ điều 33 đến điều 46, các quy định này nhằm bảo đảm quyền tự định đoạt và nguyên tắc bình đẳng giữa vợ chồng cũng như chế độ tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên xét về mặt nguyên tắc dù hai bên có thỏa thuận áp dụng chế độ tài sản nào đi chăng nữa thì pháp luật quy định cũng đều phải tuân thủ các nguyên tắc chung về chế độ tài sản tại Điều 29 theo đó “Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.” Về tài sản chung của vợ chồng được quy định cụ thể tại Điều 33 theo đó: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân.”
Đầu tiên, có thể thấy phụ nữ bình đẳng với người chồng trong việc chiếm hữu, quản lý sử dụng và tạo ra tài sản chung. Vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc tạo ra tài sản chung dù người chồng có công việc ổn định và người vợ không đi làm mà chỉ ở nhà làm nội trợ đi chăng nữa thì họ vẫn được coi là bình đẳng với nhau và không có sự phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập, công sức đóng góp tạo ra thu nhập của hai người là như nhau. Vợ chồng phải có nghĩa vụ sử dụng tài sản theo đúng các quy định của pháp luật, có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc sử dụng tài sản đó. Ngoài ra việc quản lý, sử dụng định đoạt tài sản có thể thỏa thuận giữa các bên mà không nhất thiết phải do cả hai vợ chồng cùng quản lý, sử dụng.
Hai là, Quyền bình đẳng của phụ nữ trong việc sử dụng tài sản chung để đảm bảo các nhu cầu của gia đình. Các nhu cầu hàng ngày của gia đình có thể là việc ăn uống, điện nước, sinh hoạt, đi lại, việc học tập của các con, chăm lo sức khỏe các thành viên trong gia đình...Điều này được quy định tại Điều 30 của Luật HN&GĐ theo đó người vợ có quyền được thực hiện các giao dịch nhằm đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của gia đình và trong các trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên.
Ba là, Quyền bình đẳng của phụ nữ thể hiện qua việc xác lập, thực hiện chấm dứt các giao dịch liên quan đến tài sản là chỗ ở duy nhất. Theo điều 31 LHN&GĐ quy định các bên có quyền thỏa thuận về việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản đó nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ chồng. Khoản 1 điều 34 cũng quy định “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.” Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng còn được thể hiện qua việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp liên quan đến bất động sản, động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình (Điều 35), hoặc thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh (Điều 36). Các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung mà chỉ mang ý chí của một bên mà không có sự thỏa thuận của bên còn lại thì bên đó có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu theo quy định của bộ luật Dân sự năm 2015.
Cuối cùng, Quyền bình đẳng của phụ nữ thể hiện qua quyền đại diện giữa vợ và chồng trong khi thực hiện các giao dịch. Điều này xuất phát trên cơ sở bình đẳng và tự do cá nhân, vợ chồng có thể thỏa thuận giúp đỡ nhau để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi một trong các bên không thể trực tiếp tham gia được các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại,... cũng như các quan hệ xã hội khác. Việc đại diện có thể theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền, đại điện giữa vợ và chồng được quy định tại Điều 24 LHN&GĐ theo đó Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng, vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.
Có thể thấy các quy định trong đại diện giữa vợ và chồng nhằm hướng tới Quyền bình đẳng của phụ nữ, người vợ cũng tương tự như người chồng trong gia đình cũng có quyền đại diện không bị phân biệt với người chồng, đảm bảo được lợi ích chung của gia đình, cũng như tránh các giao dịch trái với các quy định của pháp luật.
Thứ ba, quyền đối với con cái. Trong quan hệ với con cái, vợ chồng cũng có các quyền và nghĩa vụ bình đẳng như nhau. Theo quy định của pháp luật các sự kiện bao gồm như sinh con, hay nhận nuôi con nuôi... đều làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái. Con cái sinh ra sẽ chịu ảnh hưởng rất lớn từ cha mẹ và môi trường giáo dục do vậy cha mẹ là những người có nghĩa vụ thực hiện các vấn đề nhằm đảm bảo chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục chúng một cách tốt nhất. Quyền bình đẳngvề chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục con được thể hiện cụ thể tại điều 61 Luật HN&GĐ năm 2014, theo đó các quyền của cha mẹ với con cái bao gồm: “Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. 2. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, ....” Khoản 1 Điều 71 cũng quy định rất rõ ràng về Quyền bình đẳng của cha mẹ trong việc chăm sóc nuôi dưỡng con cái trong mọi hoàn cảnh, trường hợp “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau...”. Nhằm bảo vệ các Quyền bình đẳng của cha mẹ nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng, nghị định số 167/2013 NĐ–CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình đã quy định về các hành vi ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau. Theo đó “Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con,...”
Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng đối với con cái cũng thể hiện qua việc bình đẳng trong việc đại diện cho con được quy định cụ thể tại khoản 3 Điều 69 Luật HN&GĐ năm 2014 “Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.” Điều 73 cũng quy định về đại diện cho con theo đó cha mẹ sẽ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật, cha hoặc mẹ có quyền tự mình thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, đối với các tài sản như động sản và bất động sản có đăng ký quyền sở hữu quyền sử dụng thì phải có sự thỏa thuận của cha mẹ về người sẽ trực tiếp thực hiện các giao dịch dân sự đó. Các quy định này đã góp phần thể hiện Quyền bình đẳng trong quan hệ hôn nhân gia đình giữa vợ và chồng đồng thời cũng gắn liền với quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái.
Không những vậy, Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng cũng được thể hiện qua các quyền được lựa chọn họ tên cho con, quyền lựa chọn tôn giáo, nơi cư trú cho con, khi thực hiện các quyền này vợ chồng đều phải có sự thỏa thuận với nhau và tất cả những vấn đề đó phải là những điều kiện giúp con phát triển và tạo điều kiện tốt nhất cho con.
3. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong việc nuôi con nuôi:
Đối với các cặp vợ chồng hiện nay, vấn đề nuôi con nuôi ngày càng quan trọng. Trong đó, việc bình đẳng giữa người phụ nữ (người vợ) và chồng trong việc thỏa thuận nhận nuôi, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng... cần được quan tâm và chú trọng, giúp phụ nữ được bình đẳng ngay cả trong vấn đề nhận và nuôi con nuôi hiện nay. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Việc được nhận và nuôi con nuôi của các cặp vợ chồng còn thể hiện tính nhân văn trong việc tạo điều kiện cho đứa trẻ được sống và phát triển trong một gia đình trọn vẹn, iều kiện về mọi mặt giúp đứa trẻ được sinh sống và phát triển tốt nhất. Điều đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ đối với các cặp vợ chồng mà còn ở đứa trẻ. Điều 2, Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đã đặt ra quy định về mục đích nuôi con nuôi, đó là “việc nhận nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình”. Như vậy, xét ở các khía cạnh về đạo đức, về chuẩn mực xã hội, góc độ về quyền con người hay các góc độ khác thì quyền nuôi con nuôi của người phụ nữ nói riêng hay của cặp vợ chồng nói chung cũng đều bắt nguồn và xuất phát từ những nhu cầu thiết yếu, mong muốn, hạnh phúc của con người được chuẩn mực được quốc gia và cộng đồng quốc tế ghi nhận. Từ những phân tích trên, có thể hiểu: “Quyền nuôi con nuôi là nhu cầu khách quan tự nhiên của con người được thể hiện ở việc các cặp vợ chồng có mong muốn được nhận và nuôi con nuôi, có đủ các điều kiện thì được ghi nhận, thúc đẩy và bảo đảm bằng pháp luật”.
Hiện nay, tại Việt Nam đã có Luật HN&GĐ, Luật Nuôi con nuôi và các văn bản dưới luật, hướng dẫn thi hành tương đối đầy đủ về vấn đề nhận và nuôi con nuôi. Theo đó, pháp luật đã đặt ra những quy định cụ thể, rõ ràng nhằm đảm bảo Quyền bình đẳng của phụ nữ trong việc có quyền được nhận, nuôi, chăm sóc, giáo dục con nuôi, ngang bằng với quyền của người chồng trong gia đình. Qua đó, thể hiện sự công bằng, bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc nhận và nuôi con nuôi. Cụ thể, pháp luật Việt Nam hiện hành đã quy định:
Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đã có những quy định về điều kiện nhận con nuôi trong nước. Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đã quy định người nhận nuôi phải có đủ các điều kiện theo Điều 14 thì được phép nhận con nuôi. Mặt khác, Khoản 1, Điều 2, Nghị định số 24/2014/NĐ–CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 19/2011/NĐ–CP ngày 21 tháng 3 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi. Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi thuộc về cơ quan sau: (1) Trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì UBND cấp xã nơi cư trú của người nhận con nuôi hoặc của người được nhận làm con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi; (2) Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi chưa chuyển vào cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì UBND cấp xã nơi lập biên bản xác nhận tình trạng trẻ em bị bỏ rơi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi; (3) Trường hợp trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì UBND cấp xã nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.
Từ những quy định trên, nhận thấy rằng những quy định của pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi hiện hành đã có những quy định chi tiết, cụ thể trong việc xác định điều kiện nhận và nuôi con nuôi của từng người cụ thể; hơn nữa với việc xác định quyền được làm cha mẹ là một quyền nhân thân quan trọng của con người, gắn liền với từng người, bình đẳng như nhau giữa nam và nữ, được pháp luật tôn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện để cá nhân thực hiện quyền đó như nhau trong cùng một gia đình và được pháp luật ghi nhận, bảo đảm thực hiện.
Trong Luật HN&GĐ năm 2014 đã có quy định đề cập tới mối quan hệ giữa cha mẹ và con. Cụ thể, luật quy định việc cha mẹ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cái như nhau... hay có các quyền giám hộ hoặc đại diện cho con nuôi... Những quy định trên được xây dựng dựa trên việc tiếp cận, học hỏi và kế thừa có chọn lọc những kinh nghiệm của pháp luật quốc tế. Điển hình, tại công ước CEDAW đã khẳng định: “Thừa nhận trách nhiệm chung của cả vợ lẫn chồng trong việc nuôi dạy và phát triển con cái, lợi ích của con cái phải được nhận thức rõ là ưu tiên hàng đầu trong mọi trường hợp” (Điểm b, Điều 5). Điều đặc biệt quan trọng đó là Công ước chỉ rõ:
“Quyền và trách nhiệm như nhau với vai trò làm cha mẹ trong mọi vấn đề liên quan đến con cái, bất kể tình trạng hôn nhân như thế nào” (Điểm d, Điều | 16). Như vậy trách nhiệm của cha mẹ đối với con là như nhau trong mọi trường hợp: khi hôn nhân đang tồn tại, sau khi ly hôn, khi không có quan hệ hôn nhân hoặc trong hôn nhân trái pháp luật.
Qua đây, nhận thấy quyền giữa vợ chồng đều được pháp luật quy định bình đẳng về các phương diện trong mối quan hệ HN&GĐ. Liên quan đến quyền nuôi con nuôi, pháp luật đã có những quy định điều chỉnh vấn đề nhận, nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc và nuôi con nuôi giữa vợ và chồng.
4. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ với tư cách là thành viên trong gia đình:
Trong mỗi gia đình, người phụ nữ luôn đóng vai trò quan trọng, ngoài thiên chức của người phụ nữ với tư cách là người vợ đối với chồng, người mẹ đối với con cái thì trong mỗi gia đình người phụ nữ còn có các tư cách là người bà với con cháu, là chị em gái, người cô, người dì hay bác ruột. Với mỗi tư cách lại gắn liền với những quyền nhất định đã được quy định cụ thể trong pháp luật HN&GĐ.
Thứ nhất, với tư cách là người bà, theo Điều 104, Luật HN&GĐ thì ông bà nội, ông bà ngoại có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu; trường hợp cháu chưa thành niên, cháu đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng. Cùng với đó trong trường hợp ông bà nội, ông bà ngoại không có con để nuôi dưỡng mình thì cháu đã thành niên có nghĩa vụ nuôi dưỡng, kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại;
Thứ hai, với tư cách là chị em gái trong gia đình theo Điều 105 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định anh, chị, em có quyền, nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.
Thứ ba, với tư cách là cô, dì, bác gái ruột có các quyền, nghĩa vụ phải thương yêu, chăm sóc, và giúp đỡ nhau; có quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu ruột trong trường hợp người cần được nuôi dưỡng không còn cha, mẹ nữa. Ngoài ra, nhằm đảm bảo quyền lợi pháp luật cũng quy định cháu đã thành niên không sống chung với cô, dì, chú, cậu, bác ruột có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cô, dì, chú, cậu, bác ruột trong trường hợp người cần được cấp dưỡng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người khác cấp dưỡng theo quy định tại Khoản 2 Điều 114 Luật HN&GĐ năm 2014.
Trong trường hợp sống chung với cha mẹ chồng, với tư cách là người con dâu thì sẽ có các quyền được cha mẹ chồng thương yêu, tôn trọng, và giúp thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật cụ thể tại Điều 80 của Luật HN&GĐ năm 2014.
Như vậy, Quyền bình đẳng của phụ nữ trong HN&GĐ với mối quan hệ của các thành viên trong gia đình thì luôn đề cao việc yêu thương, đùm bọc và giúp đỡ nhau. Người phụ nữ có rất nhiều tư cách và vai trò trong gia đình như bà, mẹ, dì, cô...sẽ cần nhận được bình đẳng với các thành viên khác. Pháp luật cần có các quy định rõ ràng, cụ thể và đầy đủ tránh tình trạng thiếu căn cứ gây nên những khó khăn trong quá trình áp dụng. Với trường hợp bảo đảm sự bình đẳng của phụ nữ trong mối quan hệ giữa các thành viên thì cần bảo đảm, thúc đẩy và tạo điều kiện cho người phụ nữ có cơ hội phát triển, thể hiện ý kiến, quan điểm của mình trong các vấn đề gia đình. Các ý kiến đó cần được tôn trọng, các thành viên trong gia đình cần chia sẻ và cùng nhau giúp đỡ họ vượt qua những khó khăn, tránh trường hợp để người phụ nữ phải gánh chịu những sự xâm phạm quyền liên quan đến sự bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình. Cơ chế bảo đảm Quyền bình đẳng của phụ nữ trong mối quan hệ với các thành viên trong gia đình là sự tuyên truyền, vận động, bảo đảm bằng các phương thức liên quan đến đạo đức, truyền thống gia đình Việt, thuần phong mỹ tục, phong tục tập quán, pháp luật và các giá trị khác. Vì vậy, Quyền bình đẳng của phụ nữ sẽ ngày càng được coi trọng và thúc đẩy mạnh mẽ, cần có sự phối hợp giữa các thành viên trong gia đình và xã hội ở hiện tại và tương lai.
5. Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ khi chấm dứt hôn nhân:
Chấm dứt hôn nhân có thể hiểu là sự kết thúc của mối quan hệ hôn nhân được pháp luật công nhận. Tại chương IV, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định có 02 trường hợp chấm dứt hôn nhân là ly hôn và hôn nhân chấm dứt do vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Trường hợp lý hôn được chia thành ly hôn theo yêu cầu một bên (còn gọi là đơn phương ly hôn) (Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014) và thuận tình ly hôn (Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014).
Khoản 14 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định: Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Khi cuộc sống hôn nhân trở nên mâu thuẫn không còn tiếng nói chung, và việc hòa giải không còn hiệu quả nữa thì việc ly hôn trong lúc này nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bên. Quyền bình đẳng của phụ nữ thể hiện ở quyền yêu cầu ly hôn: Quyền này được quy định cụ thể tại điều 51 về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn cụ thể:“ Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.” Như vậy khi xảy ra mâu thuẫn và không thể tiếp tục hôn nhân thì cả hai bên vợ và chồng đều có quyền yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn. Người vợ có quyền yêu cầu thuận tình ly hôn theo quy định tại Điều 55 theo đó trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn. Việc đơn phương yêu cầu ly hôn được quy định tại điều 56 Luật HN&GĐ. Trong các quy định về ly hôn ngoài người vợ có quyền yêu cầu thì những người thân trong gia đình hoàn toàn có quyền yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn, điều này được quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật HN&GĐ theo đó: “Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn” Quy định này sẽ giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một trong hai bên vợ chồng khi một trong hai bên vợ chồng bị tâm thần, hoặc mắc bệnh không làm chủ được hành vi đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình. Họ là những người bị mất năng lực hành vi dân sự do vậy không có khả năng tự mình thực hiện quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, đây cũng là một quy định mới trong Luật HN&GĐ năm 2014 và có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ Quyền bình đẳng của phụ nữ.
Trong quy định tại Điều 51 về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn, nhằm đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ, cũng như bảo vệ quyền của trẻ em, pháp luật HN&GĐ có quy định về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng. Trong trường hợp người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì người chồng sẽ không có quyền yêu cầu ly hôn. Trong trường hợp này, tòa án sẽ không thụ lý đơn xin ly hôn của người chồng và người chồng phải đợi đến khi người vợ sinh con xong và đứa trẻ trên 12 tháng tuổi mới được tiếp tục xin ly hôn. Trong thời kỳ mang thai là thời kỳ hết sức nhạy cảm, người vợ phải chịu rất nhiều những áp lực và sự thay đổi rất lớn từ tâm sinh lý, lúc này trách nhiệm của người chồng là vô cùng quan trọng trong việc chăm lo cho sức khỏe của người vợ. Tuy nhiên có thể thấy pháp luật chỉ hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng có nghĩa là trong trường hợp người vợ dù đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi mà có đơn yêu cầu thì tòa án vẫn thụ lý giải quyết, nhằm đảm bảo và tôn trọng sự lựa chọn của người vợ đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng của người phụ nữ.
Quyền bình đẳng của phụ nữ trong việc trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn: Theo quy định tại điều 81, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn .Như vậy, sau khi ly hôn cha mẹ vẫn có các quyền và nghĩa vụ như nhau, về người trực tiếp nuôi con các bên có thể thỏa thuận ai sẽ là người thực hiện và pháp luật tôn trọng các thỏa thuận đó. Đáng chú ý tại Khoản 3 Điều 81 quy định “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi” cho thấy trong trường hợp người mẹ có đủ các điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc và nuôi dưỡng con dưới 36 tháng tuổi thì sẽ được pháp luật ưu tiên trong quyền nuôi dưỡng con cái, và chúng ta cũng có thể thấy rằng một đứa trẻ 36 tháng tuổi rất cần sự chăm sóc và nuôi dưỡng của người mẹ vì chúng còn quá nhỏ, điều này là hoàn toàn phù hợp đồng thời cũng bảo đảm quyền của người mẹ và các quyền của đứa trẻ đó.
Sau khi đã quy định hoặc thỏa thuận của các bên về ai sẽ là người trực tiếp nuôi con thì bên còn lại có quyền và nghĩa vụ thăm nom mà không ai có quyền cản trở cụ thể tại Điều 82 “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.”Ngoài ra, trong trường hợp người vợ không có quyền trực tiếp nuôi con nhưng vẫn sẽ có quyền được thăm nom và chăm sóc con, đảm bảo con vẫn nhận được sự quan tâm, chăm sóc của cả bố và mẹ.
Quyền bình đẳng về tài sản sau khi ly hôn. Khi chấm dứt quan hệ hôn nhân, pháp luật thường tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Về mặt nguyên tắc theo điều 59 Luật HN&GĐ “Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận”, còn trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận mà vợ chồng đã xác lập trước đó. Như vậy có thể thấy pháp luật rất tôn trọng và đề cao thỏa thuận của hai bên, vợ chồng đều có Quyền bình đẳng như nhau trong định đoạt, phân chia tài sản chung. Chỉ khi các bên có tranh chấp và có yêu cầu Tòa án giải quyết thì khi đó tài sản sẽ được chia đôi và căn cứ vào các yếu tố như: hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng, công sức đóng góp; yếu tố lỗi. Những yếu tố căn cứ này cũng đều đã thể hiện nguyên tắc bình đẳng của vợ chồng trong việc chia tài sản chung sau khi ly hôn, đảm bảo quyền lợi của các bên khi có tranh chấp xảy ra.
Quyền bình đẳng của người vợ trong chấm dứt hôn nhân do Chồng chết hoặc tòa án tuyên bố đã chết: theo Điều 66 trong trường hợp này người vợ có quyền quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản. Khi có các yêu cầu về chia di sản thì nếu không có thỏa thuận khác thì tài sản sẽ được chia đôi, đối với phần tài sản chung đã chia người vợ sẽ có quyền thừa kế đối với phần tài sản đó. Pháp luật cũng quy định trong trường hợp người vợ thấy việc phân chia di sản làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của mình hoặc gia đình có quyền yêu cầu tòa án hạn chế phân chia di sản.