Tóm tắt đề Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao viết về số phận người nông dân Việt Nam trước cách mạng. Hình ảnh Chí Phèo và ba lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến là cách biến người nông dân hiền lành, chất phác thành con quỷ dữ của Làng Vũ Đại. Nhằm giúp các em nắm kiến thức và đạt kết quả cao trong học tập, dưới đây là dàn bài chi tiết và bài văn mẫu phân tích ý nghĩa của ba lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích 3 lần Chí Phèo đến nhà bá Kiến ngắn gọn nhất:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu về tác giả Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo
– Dẫn vào vấn đề: ý nghĩa của ba lần Chí Phèo đến nhà bá Kiến
1.2. Thân bài:
Lần 1: Sau ngày về làng, Chí Phèo uống rất nhiều rượu rồi đến thẳng nhà Bá Kiến gọi liên tục chửi thề. Cáo già Ba Kiến đã dùng lời ngon tiếng ngọt và tiền bạc dụ dỗ, mua chuộc để Chí Phèo trở thành trợ thủ đắc lực của mình. Như vậy, Chí Phèo đã không thể trả thù được mà còn bị bá Kiến trói buộc, khống chế.
Lần 2: Mệt mỏi với cuộc sống đơn độc, chật vật và túng quẫn, Chí Phèo lại đi ăn mày nhà ngục Bá Kiến. Nhận ra điểm yếu của Chí Phèo, Bá Kiến đã dùng miếng mồi vật chất để dụ Chí Phèo lao vào con đường tay sai của mình bằng cách tiêu diệt các phe nhóm chống đối trong làng. Mối thù vẫn còn nguyên nhưng Chí Phèo đã chuộc lỗi vẫn bị cuốn vào âm mưu bất chính của Bá Kiến.
Lần thứ ba: mối tình ngắn ngủi với Thị Nở đã đánh thức lương tâm Chí Phèo. Anh khao khát được sống, được yêu. Bị bỏ rơi, bị chối bỏ, tuyệt vọng và uất ức, Chí Phèo tìm đến Bá Kiến để giết hắn. Cuộc tranh chấp được trả bằng chính mạng sống của Chí Phèo. Bi kịch cuộc đời Chí Phèo đã lên đến đỉnh điểm. Đây là một giải pháp không thể tránh khỏi trong tình huống này.
1.3. Kết bài:
Tổng kết lại củng cố thêm giá trị của tiểu thuyết Chí Phèo và cả tầm quan trọng của chi tiết Chí Phèo ba lần đến nhà Bá Kiến.
2. Ý nghĩa 3 lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến hay nhất:
Tác phẩm Chí Phèo có hai nhân vật tương phản là Bá Kiến và Chí Phèo. Đó là cuộc đối đầu giữa một bên là Bá Kiến đại diện cho giai cấp thống trị của xã hội hiện đại và một bên là Chí Phèo đại diện cho giai cấp nông dân vốn đã thối nát. Cũng phải nói thêm rằng, sự tha hóa của Chí không phải bẩm sinh mà được sinh ra trong quá trình vận động và hình thành nhân cách giữa một xã hội vô nhân đạo. Trước đó, Chí cũng là người lương thiện làm ruộng cho nhà Bá, sau bị Bá Kiến tống giam. Cuộc sống trong tù đã thay đổi hoàn toàn con người hiền lành chất phác, Chí trở thành một kẻ liều lĩnh, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một kẻ tha hóa, tha hóa về nhân cách. Và ôm nỗi niềm không thể xóa nhòa trong lòng, nếu coi việc Chí Phèo ra tù là một dấu mốc, thì có thể nói Chí Phèo đã ba lần đi tìm kẻ thù Bá Kiến. Nó xảy ra ba lần trong ba tình huống, vì ba lý do khác nhau.
Lần đầu tiên khi Chí Phèo mới ra tù,”Hắn về hôm trước, hôm sau đó thấy ngồi ở chợ uống rượu”, trong cơn say đã vác ve chai đến trước cổng nhà Bá Kiến hét tên anh và chửi rủa. Đó là hành động của một kẻ say rượu đã nằm sẵn trong tiềm thức của Chí Phèo. Ngoài những năm tù, tranh chấp này ngày càng sâu sắc. Sau nhiều năm ngồi tù, Chí đã có cơ hội suy nghĩ lại trước khi đưa ra quyết định đúng đắn. Vì vậy, hơn bao giờ hết, khi ra tù, Chí mang đầy ý chí trả thù. Nỗi căm giận với nguyên nhân gây ra tội lỗi và kẻ đã dẫn mình đến con đường đau khổ đã dẫn Chí đến nhà lão Bá Kiến dù đã ngà ngà say. Hành vi của Chi là hoàn toàn liều lĩnh và bộc phát. Ngoài ra, nhân vật của Chí chỉ là một nông dân thật thà đến mức gần như ngây thơ nên thất bại trong lần đối đầu này là rất rõ ràng. Làm sao qua được một kẻ âm hiểm như Bá Kiến. Bá Kiến là một kẻ gian xảo, xảo quyệt, nhiều mưu kế nên việc đối phó với Chí không khó khăn chút nào. Bá Kiến hiểu ý đối thủ chỉ qua một cái nhìn. Vì vậy, Chí đã thất bại thảm hại, cay đắng trước những lời ngon tiếng ngọt với một vài đồng đã làm mù mắt Chí. Từ vị trí kẻ tra hỏi địch, ván cờ lập tức đảo ngược: kẻ có tội được yên thân làm ân nhân, kẻ tra khảo trở thành tay sai vô tình phục vụ địch.
Một lần khác, cũng say, Chí Bá đến nhà Kiên gặp để đòi đi tù. Đây là một nghịch lý. Ngày nay, tôi chưa từng thấy ai làm điều phi lý như vậy, chỉ có Chí Phèo. Tuy nghịch lý nhưng nó phản ánh hiện thực Chí. Không thức ăn, không quần áo, thậm chí không một mảnh đất. Hoàn cảnh éo le của Chí cũng phản ánh phần nào thực trạng xã hội bấy giờ, đó là những kẻ lạc lối, sa vào tội lỗi không thể thoát ra được. Khi bị giam cầm cho đến khi trở về cuộc sống đời thường, anh không tìm được kế sinh nhai hay nói đúng hơn là không được chấp nhận và vì thế anh càng bị đẩy vào ngõ cụt. Nghe Chí nói với Bá Kiến mà anh đau thắt ruột gan:”Bẩm quả đi tù sướng quá đi, ở tù có cơm ăn, bây giờ về làng về nước một thước cắm dùi không có…” . Sự thật như vậy? Chẳng lẽ nhà tù là nơi trú ẩn an toàn sao? Khi nói đến lời nói, chúng ta không thể nghĩ khác. Nhưng khi suy nghĩ sâu xa, chúng ta ngạc nhiên và lương tâm không thanh thản. Một nhà tù nuôi sống con người? Không, nói nó nuôi những con người hư hỏng, những con quỷ như Chí Phèo thì đúng hơn. Nếu mục đích của nhà tù là cảnh tỉnh con người, cải tạo, đưa con người trở lại cuộc sống bình thường, thì ở đây nhà tù hoạt động ngược lại. Nó biến những người lương thiện thành một số tội phạm bất hạnh. Tác giả Hugo đã có lý khi nói: “Khi chưa vào tù anh là một cành cây tươi, khi ra tù anh là một cây củi khô”. Cũng như lần trước, Tèo lại thất bại trước sự khôn ngoan của Bá: bị phản bội mà không hề hay biết. Âm mưu của Bá Kiến độc ác như thế nào. “Dùng độc trị độc”, dùng Chí Phèo để trị một đám tảo tần. Cả Chi và Đội đều là kẻ thù của anh ta nên không có mâu thuẫn ai thắng ai thua, cả hai đều có lợi, cả hai đều thực hiện mục đích trả thù, không mang tiếng kẻ báo thù.
Lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng Chí đến gặp Bá Kiến. Cũng với dáng vẻ say khướt đó, nhưng lần này Chí có một không khí và mục đích khác hẳn những lần trước. Từ chối Chí Phèo, Thị Nở rơi vào tuyệt vọng tột cùng. Trong lòng Chí là chí hướng thiện, khát khao được trở lại con đường hoàn lương để sống một cuộc đời lương thiện như bao người khác. Nhưng xã hội vô nhân đạo đã quay lưng lại với sự ăn năn hối cải của kẻ có tội, tình yêu đã khép lại, xã hội đã vẽ đường về cho Chí và ruồng bỏ quyền con người. Điều này sẽ không bao giờ tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống này. Bản chất con người mới trỗi dậy đã bị nghiền nát không thương tiếc. Có thể nói đây là những lúc tỉnh táo nhất trong cuộc đời say của Chí, những lúc mà ý thức phản kháng càng trỗi dậy mạnh mẽ. Chí đã sống gần hết cuộc đời và chỉ đến lúc đó Chí mới khám phá và hiểu ra chân lý của cuộc đời. Dù đã muộn, nhưng phát hiện này đối với Chí Phèo quý giá biết bao, và Chí Phèo quyết giữ chặt lấy nó không để vuột mất, cho dù phải tốn rất nhiều tiền. Chí vừa tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài, một sự thay đổi to lớn đang diễn ra trong tâm hồn Chí. Đó là sự vươn lên của tình người, của sự lương thiện. Chí đã nhận ra chân tướng của kẻ thù, kẻ đó chính là Bá Kiến chứ không ai khác, lẽ ra Chí Phèo phải tìm đến nhà Thị Nở, nhưng tiềm thức sâu xa đã dẫn dắt Chí đến nhà Bá Kiến. Trong cuộc đối đầu cuối cùng này, Chí Phèo đã thay đổi hoàn toàn, một sự thay đổi quá đột ngột và nhanh chóng mà Bá Kiến không ngờ tới. Vì không hiểu rõ đối thủ và chủ quan coi thường kẻ thù nên Bá Kiến đã thất bại thảm hại. Hắn đã phải trả giá đắt cho hành vi tội lỗi của mình. Kiêu căng và ngạo mạn, Chí Phèo chỉ vào mặt Bá Kiến dõng dạc nói: “Ta muốn làm người lương thiện”. Chúng tôi chưa bao giờ thấy tư thế này ở Chí Phèo. Trước đây, hắn chỉ có thể lễ phép cúi đầu, trước mặt hắn một cái, hai cái cúi đầu. Đây là sự chuyển mình và khẳng định bản thân của Chí. Ngôn ngữ Chí càng trở nên triết lý: “Ai cho tôi lương thiện? Tôi không thể làm người lương thiện”. Lời cuối cùng được nói ra với tất cả chua xót, cay đắng. Chí đã bị đẩy đến giới hạn. Không lối thoát, không còn lựa chọn nào khác ngoài việc kết liễu mạng sống của kẻ thù và sau đó là kết liễu mạng sống của chính mình. Bi kịch kết thúc trong máu và nước mắt.
Tác phẩm Chí Phèo khiến người ta phải băn khoăn, đè nén suy nghĩ. Truyện đã vẽ nên thành công bức tranh đời sống ở nông thôn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Truyện giới thiệu những mâu thuẫn, xung đột gay gắt giữa bọn bạo chúa với những người nông dân nghèo khổ bị đẩy vào con đường tội lỗi, điển hình là Bá Kiến và Chí Phèo. Những xung đột nội bộ này cho thấy sự xấu xa và thối nát của xã hội hiện đại. Hơn bao giờ hết, bức tranh nông thôn Việt Nam dường như thật tang thương. Nơi đây đầy rẫy những con người thấp hèn (Bá Kiến, Đội Tao, Ba Bá..) cũng như các tệ nạn xã hội, rượu chè, cờ bạc, trộm cắp có dịp sinh sôi nảy nở. Trong một xã hội không chỉ có đói nghèo ngự trị mà còn có nạn diệt chủng, tác giả đã vẽ nên một chân dung người nông dân mới rất thành công: Chí Phèo. Hình tượng Chí trở thành một hình mẫu văn học, hình mẫu một con người tha hóa về nhân cách, vừa sống động, vừa độc đáo, mới lạ. Nó còn thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả, lòng thương người, trân trọng sâu sắc đối với số phận của người chinh phụ. Bị xã hội chà đạp. từ chối, từ chối hoặc thậm chí tước quyền con người. Ở những con người mà xã hội cho là vô cùng xấu xa ấy, trong con mắt yêu thương của nhà văn vẫn còn đâu đó tính nhân văn, sự phản kháng muốn chống lại xã hội, muốn thoát ra khỏi cái xã hội phi nhân tính nào đó yêu thương con người ấy. Tác phẩm toát lên khát vọng hạnh phúc, khát vọng quyền con người và khát vọng nhân loại. Đặc biệt là tiếng khóc trước khi Chí Phèo chết. Nó hàm chứa một tư tưởng rất cao cả. Đó là tiếng kêu cứu của một con người bị số phận bị hành hạ: “Ai cho tôi lương thiện? Tôi muốn làm người lương thiện”. Tiếng kêu đó đau đớn và nghiêm trọng làm sao. Nó không ngừng xoáy vào lòng người, khiến ta phải băn khoăn, đặt tên hay đúng hơn là trình bày một vấn đề nan giải, một vấn đề chung không của riêng ai, đó là “những con số” như số phận con người, nó gọi loài người, kêu gọi quan tâm đến số phận. của những người bất hạnh. Kêu cứu trong những vấn đề liên quan đến phẩm giá con người đang trên đường hủy diệt. Nó đặt ra nhiệm vụ cao cả là cứu vãn phẩm giá con người, bảo vệ các quyền con người, đòi hỏi sự hiểu biết chân lý:”Người với người sống để yêu nhau”.
Tác phẩm gián tiếp lên án xã hội nhơ bẩn, bất nhân. Xã hội này là nơi những con người như Chí Phèo được sinh ra và lớn lên. Những người sống trong xã hội này sống trong vòng nghèo đói. Khi Chí Phèo này chết, một Chí Phèo khác ra đời thay thế. Chi tiết cuối cùng của tác phẩm là cảnh Thị Nở (sau cái chết của Chí Phèo) thấp thoáng bên lò gạch bỏ hoang vắng bóng người qua lại… Phải chăng tác giả đã vô tình đánh dấu ngôi mộ.
Có người nói đó là một kết thúc bi quan. Tại sao bạn không nghĩ rằng Nam Cao kêu gọi chúng ta cứu những đứa trẻ Chí Phèo, phá bỏ những cái lò gạch cũ để mọi người cùng nhau sống một cuộc sống tươi sáng và tươi đẹp hơn?
3. Tổng kết:
Giá trị hiện thực của tác phẩm:
– Tố cáo xã hội thực dân, phong kiến đầy áp bức, bất công đã cướp đi phẩm giá con người, chà đạp lên quyền sống.
Giá trị nhân văn của lao động:
– Lao động là tiếng kêu cứu, là hồi chuông cảnh tỉnh để cứu người.