Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài là tác phẩm tiêu biểu, đại diện cho ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao của Nguyễn Huy Tưởng. Để nắm được nội dung, mời các em tham khảo bài Phân tích xung đột kịch trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.
Mục lục bài viết
1. Tóm tắt tác phẩm “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”
Vở kịch Vũ Như Tô được chia thành năm hồi, nội dung vở kịch viết về sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 – 1517 khi nước ta đang trong giai đoạn phong kiến của thời nhà Lê.
Nhân vật chính của vở kịch là kiến trúc sư tài giỏi, thẳng thắn tên là Vũ Như Tô. Lê Tương Dực vị vua bạo chúa chỉ thích ăn chơi khoái lạc, hưởng thụ đã bắt Vũ Như Tô xây Cửu trùng đài làm nơi vui chơi hưởng thụ. Vũ Như Tô vốn cương trực, trọng nghĩa khinh tài đã từ chối mặc dù đối diện nguy cơ vi giết hại.Đan Thiềm cung nữ đã hết lòng khuyên vị kiến trúc sư này xây dựng cửu trùng đài xem như là cách để Vũ Như Tô để lại kiệt tác và thể hiện tài năng của mình cho muôn đời chiêm ngưỡng. Công trình này to lớn , tiêu tốn rất nhiều tiền của và xương máu càng khiến cho nhân dân lầm than, cơ cực. Nhân dân nổi dậy phản kháng giết Vũ Như Tô và cửu trùng đài cũng chịu chung số phận bị phá hủy.
2. Dàn ý phân tích xung đột kịch trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài:
2.1. Mở bài:
– Giới thiệu vài nét về Nguyễn Huy Tưởng
– Giới thiệu khái quát vở kịch Vũ Như Tô, đặc biệt là đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
– Dẫn dắt vấn đề
2.2. Thân bài:
* Bối cảnh của vở kịch diễn ra vào thời kỳ từ năm 1516 đến 1517 dưới triều đại của vua Lê Tương Dực. Tại kinh thành Thăng Long, xảy ra một cuộc xung đột giữa nhân dân và triều đình. Ngay lúc đó, kiến trúc sư tài ba Vũ Như Tô đã thiết kế và xây dựng Cửu Trùng Đài – một công trình vĩ đại nhưng rất tốn kém. Khi công trình đầy tâm huyết của ông bị thiêu rụi, Vũ Như Tô trở nên bất lực và đau khổ không tả được.
*Mâu thuẫn trong vở kịch này vô cùng phức tạp. Đầu tiên, là mâu thuẫn giữa phe nổi loạn và phe vua Lê Tương Dực, cũng như giữa phe Trịnh Duy Sản và Kim Phượng cùng các cung nữ. Một mâu thuẫn khác là giữa Vũ Như Tô và nhân dân lao động, đồng thời là mâu thuẫn nội tâm của Vũ Như Tô.
– Cụ thể, mâu thuẫn giữa phe nổi loạn và vua Lê Tương Dực là điểm giao của hầu hết các tầng lớp trong xã hội, từ dân chúng cho đến thợ xây dựng Cửu Trùng Đài. Trong khi đó, vua Lê Tương Dực không quan tâm đến cuộc sống của người dân mà chỉ để cho bản thân thỏa mãn ăn chơi.
Một trong những nguyên nhân gây ra mâu thuẫn này là việc xây dựng Cửu Trùng Đài. Vì lợi ích cá nhân, vua Lê Tương Dực đã ra lệnh tăng thuế và bắt cóc các thợ giỏi để xây dựng công trình này. Hành động này đã khiến cho nhân dân rơi vào cảnh khốn cùng và ngày càng gia tăng xung đột, gây ra hậu hỏa kinh hoàng trong triều đình.
Mâu thuẫn giữa các phe nội phản trong triều đình đã góp phần làm gia tăng khủng hoảng chính trị và xã hội. Trịnh Duy Sản, Ngô Hạch và An Hòa Hầu đã tạo ra sự tranh cãi và bất ổn bằng cách kích động binh đánh nổi loạn và kêu gọi người dân làm phản. Hành động này đã dẫn đến việc giết hại Vũ Như Tô, Lê Tương Dực, Đan Thiềm và phá hủy Cửu Trùng Đài.
– Mâu thuẫn tiếp tục nổ ra giữa phe Trịnh Duy Sản và Kim Phượng cùng các cung nữ trong triều đình. Sự mâu thuẫn này gây ra những xung đột không thể chấp nhận được.
Tuy nhiên, mâu thuẫn gay gắt nhất vẫn là sự xung đột giữa Vũ Như Tô và người lao động. Người lao động quan tâm tới hiện thực, lợi ích ngay lập tức trong khi Vũ Như Tô chỉ quan tâm tới cái đẹp, có hoài bão cao cả và lòng nhiệt huyết mãnh liệt. Tuy nhiên, tài năng của Vũ Như Tô không được thể hiện đúng mục đích và thời điểm, cũng như không ý thức được hậu quả khôn lường từ phía công chúng.
Với tình hình hiện tại của đất nước, Vũ Như Tô không có điều kiện để thực hiện sự sáng tạo của mình.
– Mâu thuẫn sâu trong tâm hồn của Vũ Như Tô xuất phát từ nhân dân và thợ thuyền.
+ Đối với nhân dân, họ phải đối mặt với cuộc sống đói khổ, bị đàn áp và bóc lột, từ đó nuôi lòng oán giận với vua chúa cùng những kẻ đã khởi xướng xây dựng Cửu Trùng Đài.
+ Còn kiến trúc sư lại chỉ say mê với tác phẩm của mình, quên đi hiện thực của cuộc sống nhân dân.=> Ngay cả khi công trình bị phá hủy, nghệ sĩ vẫn cho rằng mình không có lỗi, quyết tâm sống và chết để bảo vệ công trình dang dở. Họ cứ khăng khăng tin rằng mình là người thanh cao và tôn quý.
2.3. Kết bài:
– Khái quát lại một vài nét chính về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
– Đoạn trích đặt ra vấn đề có ý nghĩa nghị luận về cái đẹp, và mối quan hệ giữa nghệ sĩ và nhân dân, đồng thời tác giả thể hiện sự thương cảm, kính trọng với nghệ sĩ tài hoa, giàu khát vọng nhưng bị sa vào bi kịch.
3. Phân tích xung đột kịch trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài:
Vũ Như Tô là một vở bi kịch lịch sử gồm 5 hồi, nói về một sự kiện diễn ra ở Thăng Long vào khoảng năm 1516-1517, trong thời kỳ của vua Lê Tương Dực. Nguyền Huy Tưởng đã hoàn thành tác phẩm này vào mùa hè năm 1941. Ban đầu, ba hồi đầu tiên được đăng trên tạp chí Tri tân trong các số từ năm 1943-1944, sau đó Nguyễn Huy Tướng đã chỉnh sửa thành phiên bản 5 hồi. Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài thuộc hồi thứ V (Một cung cấm) của vở kịch Vũ Như Tô.
Trong đoạn trích trên có hai mâu thuẫn chính: mâu thuẫn giữa phe nổi loạn và phe Lê Tương Dực, cũng như mâu thuẫn giữa phe Trịnh Duy Sản và Kim Phượng cùng các cung nữ. Mâu thuẫn giữa phe nổi loạn và phe Lê Tương Dực được thể hiện qua các nhân vật như dân chúng và thợ xây dựng Cửu Trùng Đài – những nhân vật đã xuất hiện từ các phần trước. Trong đoạn Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, những nhân vật này chỉ xuất hiện thông qua lời của Đan Thiềm:”Dân gian đói kém nổi lên tứ tung… khi dân nổi loạn, họ trở nên nguy hiểm vô cùng”. Các nhân vật này cũng xuất hiện qua lời của một tên nội gián:”Thợ xây Cửu Trùng Đài có phần ủng hộ quan phản nghịch”. Trong triều đình, phe đối lập được dẫn đầu bởi Trịnh Duy Sản, theo sau là Ngô Hạch và An Hòa Hầu. Mâu thuẫn trong hồi thứ V đạt điểm cao và được giải quyết hoàn toàn. Trịnh Duy Sản và Ngô Hạch giết chết Lê Tương Dực. Đây là một cuộc xung đột bị ảnh hưởng bởi các mâu thuẫn khác và do chính các mâu thuẫn ấy tạo ra.
Mâu thuẫn giữa phe Trịnh Duy Sản và Kim Phượng cùng các cung nữ đã đạt tới mức cao nhất. Trịnh Duy Sản coi Kim Phượng và các cung nữ chỉ là những công cụ để vua Lê Tương Dực thỏa mãn ham muốn của mình, và chính vì điều này mà mâu thuẫn giữa họ trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết. Để thoát khỏi sự trừng phạt của phe nổi loạn, Kim Phượng và các cung nữ đã đổ lỗi cho Đan Thiềm, Vũ Như Tô.
Mâu thuẫn trong tâm trí của Vũ Như Tô cũng được thể hiện rõ ràng. Một số lớn thợ xây Cửu Trùng Đài đã tham gia cuộc nổi dậy do bị đói khổ và áp bức không chịu được. Họ căm phẫn với triều đình, căm ghét kiến trúc sư Vũ Như Tô và Đan Thiềm. Trong khi đó, Vũ Như Tô say mê công việc kiến trúc của mình, quên đi sự thực tế cuộc sống của người dân. Ngay cả khi cuộc khởi nghĩa bùng lên, Vũ Như Tô vẫn cho rằng mình vô tội và cố gắng chứng minh sự cao quý và hùng tráng của mình, hy vọng có thể thuyết phục được An Hòa Hầu. Đặc biệt, Vũ Như Tô sẵn lòng hy sinh cùng Cửu Trùng Đài, vì ông coi đó là cuộc sống của chính mình. Đây là mâu thuẫn giữa con người trong xã hội và con người trong nghệ thuật trong Vũ Như Tô. Các mâu thuẫn trong đoạn trích này liên kết chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau và cuối cùng được giải quyết hoàn toàn.
Mâu thuẫn giữa quan điểm nghệ thuật tinh tế, thuần túy và lợi ích của nhân dân trong đoạn trích vẫn chưa được giải quyết triệt để. Điều này được thể hiện rõ ràng ở phần cuối của vở kịch. Quần chúng đã nổi dậy và tiêu diệt Vũ Như Tô, phá hủy Cửu Trùng Đài. Dù Vũ Như Tô đã bị tiêu diệt, nhưng không nhận ra sai lầm của mình. Vũ Như Tô không ủng hộ phe Lê Tương Dực, nhưng lại muốn hoàn thành công trình nghệ thuật. Chính tác giả cũng đặt ra câu hỏi cho kết cục này.
Hành động muốn xử tử Vũ Như Tô của quần chúng có lý do đúng: Nếu không có Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài, thì nhân dân sẽ không phải chịu khổ vì Lê Tương Dực không thể làm được điều đó. Tuy nhiên, việc tiêu diệt Vũ Như Tô và phá hủy Cửu Trùng Đài lại mang tính quá khích. Giá trị nghệ thuật trong công trình và công sức của nhân dân đã được đầu tư rất lớn, và nếu có thể hoàn thành công trình ở giai đoạn khác, sẽ tốt hơn cho nghệ thuật và cả người dân.
Đoạn trích này thể hiện rõ sự độc đáo và chất lượng nghệ thuật kịch của Nguyễn Huy Tưởng thông qua ngôn ngữ kịch tính tinh vi, phong cách tổng hợp cao. Tác giả đã sử dụng ngôn từ và hành động để mô tả tính cách của các nhân vật. Đoạn trích cũng thể hiện khả năng chỉ dẫn và tạo ra xung đột cao trong kịch của tác giả. Tác giả đã khéo léo giải quyết mâu thuẫn này một cách thông minh.