Bài thơ “Tràng Giang” trong tập “Lửa Thiêng” xuất bản năm 1939 là một điển hình tiêu biểu cho sự thể hiện đa tầng, nhiều cảm xúc qua những màu sắc nghệ thuật đặc trưng. Dưới đây là bài viết về: Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang:
1.1. Giới thiệu:
– Huy Cận là nhà thơ xuất sắc trong phong trào Thơ mới.
– Tràng giang (viết năm 1939, in trong tập Lửa thiêng) là bài thơ tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám, hội tụ vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.
1.2. Phân tích khổ thơ:
a. Khổ thơ 1:
– Nhan đề và kết thơ phần nào gợi lên cảm xúc chủ đạo của bài thơ: nỗi sầu trước vũ trụ bao la.
– Bài thơ mở đầu bằng một dòng sông, vừa là sông ngoại vừa là sông nội, gieo rắc nỗi buồn trong sóng. Khác với những dòng sông hùng vĩ và sóng gió của Lý Bạch và Đỗ Phủ, Tràng Giang của Huy Cận êm đềm (sóng lăn tăn, thuyền xuôi dòng) và thấm đẫm sự chia ly (thuyền về nước trăm mối sầu). Hình ảnh cành khô trong nước thể hiện nỗi trăn trở của tác giả đối với thân phận con người.
b. Khổ thơ 2:
– Đứng trước sự bao la của thiên nhiên, nhà thơ tìm đến những nơi tập trung đông người (làng, chợ, bến tàu) và những cảnh vật hoang vắng. Huy Cận rút kinh nghiệm câu thơ dịch “Bến Phì gió đìu hiu mấy gò” mà thêm chữ “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” vào để khung cảnh càng thêm hoang vắng. Câu thơ “Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều” đề cập đến âm thanh làm nổi bật sự im lặng. (Lưu ý: có thể chấp nhận hai cách hiểu: có và không có tiếng chợ)
– Nếu khổ thơ 1 mở rộng về chiều rộng và chiều dài thì khổ thơ 2 mở rộng về chiều cao. Cấu trúc thơ tả cảnh mặt trời lặn, trời mở, sông dài trời rộng càng nhấn mạnh ấn tượng không gian được mở rộng theo cả ba chiều. Nó kết hợp độc đáo với chiều sâu của vũ trụ. Điệp ngữ được lặp lại ở đây càng làm nổi bật nỗi cô đơn.
c. Khổ thơ 3:
– Khổ thơ 3 thể hiện rõ bút pháp miêu tả phong cảnh giàu cảm xúc của thơ với những hình ảnh vừa quen thuộc vừa giàu sức gợi. Những cảnh nghèo trôi giạt giữa bờ xanh yên ả và bãi vàng cũng có thể là hình ảnh những con người trôi dạt vô định, vô định.
– Nhà thơ khao khát một sự kết nối, một sự gắn kết nhưng lúc này chỉ có không gian rộng lớn, không có con đò, không có cây cầu nào nối liền họ. Mọi người cảm thấy cô đơn và bị cô lập trong một cuộc sống không có sự thân mật.
d. Khổ thơ 4:
Cô đơn tột cùng lúc hoàng hôn, mây đùn núi bạc hoành tráng. Cánh chim giữa trời rộng thể hiện “cái tôi” cô đơn, rợp ngợp trước vũ trụ, trước cuộc đời. Huy Cận nhớ nhà mỗi khi thấy hoàng hôn.
– Vẻ đẹp kết hợp giữa cổ điển và hiện đại của bài thơ:
Tràng giang thể hiện nỗi sầu vạn cổ của con người, mang tính “nỗi buồn thế hệ” của thơ mới thời mất nước. Hình ảnh, tứ thơ đầy nét quen thuộc của thơ cổ kết hợp với hình ảnh, âm thanh chân thực của đời thường. Phong vị cổ điển được thể hiện qua thể thơ 7 chữ và bút pháp tả cảnh ngụ tình, nhưng cũng có xu hướng giãi bày trực tiếp “cái tôi” trữ tình và sáng tạo từ ngữ mang dấu ấn xúc cảm cá nhân của tác giả.
1.3. Kết luận:
Tràng giang của Huy Cận là một bức phong cảnh đầy tâm hồn. Nó thể hiện nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, cuộc đời và kết hợp giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của thơ mới thời mất nước.
2. Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang hay nhất:
Huy Cận, một nhân vật tiêu biểu trong phong trào thơ hiện đại, thường được coi là bậc thầy của thơ Đường luật. Ông được biết đến với sự pha trộn độc đáo giữa các yếu tố cổ điển và hiện đại trong các tác phẩm của mình. Bài thơ “Tràng Giang” trong tập “Lửa Thiêng” xuất bản năm 1939 là một điển hình tiêu biểu cho sự thể hiện đa tầng, nhiều cảm xúc qua những màu sắc nghệ thuật đặc trưng.
Sự kết hợp giữa yếu tố cổ điển và hiện đại trong nghệ thuật là một nét độc đáo và đặc sắc của những thi nhân tài hoa. Đối với Huy Cận, sự kết hợp này là cốt lõi trong phong cách nghệ thuật của anh. Bài thơ “Tràng Giang” của anh là sự kết hợp sáng tạo giữa hai yếu tố này, tạo ấn tượng độc đáo và cho phép Huy Cận thể hiện được cái tôi cô đơn, u sầu của mình trước vũ trụ bao la.
Huy Cận từng chia sẻ, “Tràng Giang” vốn định là một bài thơ Đường luật, theo thể tứ tuyệt. Tuy nhiên, cảm xúc của một sinh viên đại học buồn và nhớ nhà đã khiến anh chuyển bài thơ thành một bài thơ Đường với bảy ký tự mỗi dòng, gợi nhớ đến thơ cổ điển Trung Quốc. Nhờ vậy, màu sắc cổ điển thể hiện rõ ở nhan đề, lời tựa và xuyên suốt cả bốn khổ thơ, tạo nên sự liên kết đan xen làm khuếch đại âm điệu sầu não, mộng mị vốn là nét riêng của hồn thơ Huy Cận.
Bài thơ “Tràng Giang” với tiêu đề này đã gợi lên nét cổ điển từ ngay khi đọc. Nếu sử dụng tiêu đề “Chiều trên sông” như ban đầu, không thể tạo ra cảm giác như vậy. “Tràng Giang” là một từ Hán Việt, có nghĩa là một con sông dài, với điệp vần “ang” tạo nên sắc thái cổ kính, trang trọng và âm hưởng ngân vang dài rộng hơn. Điều này khiến độc giả cảm nhận như đang đọc một bài thơ Đường. Lời đề “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” với câu thơ thất ngôn, vẽ nên một khung cảnh rất Đường thi. Đó là cảm xúc buồn bã, cô đơn của con người trước một không gian rộng lớn bao la của trời, của sông, như ta thường thấy trong thơ của một thi sĩ xưa nào đó. Màu sắc cổ điển ngay từ ban đầu đã dẫn dắt cảm xúc của nhân vật trữ tình, khơi dậy nguồn cảm hứng để vẽ nên một khung cảnh đẹp, mênh mông có khả năng chứa đựng nỗi sầu nhân thế của nhà thơ.
Phong vị cổ điển của “Tràng Giang” tiếp tục được khơi gợi bởi những chất liệu, hình ảnh, bút pháp miêu tả, ngôn ngữ, giọng điệu được sử dụng trong bài thơ. Huy Cận đã sáng tạo và vận dụng nguồn thi liệu cổ để tạo nên sắc thái riêng trong tác phẩm này. Những hình ảnh như tràng giang, sóng gợn, con thuyền, bến cô liêu, bèo trôi, áng mây, cánh chim, bóng hoàng hôn không hề xa lạ trong thơ xưa. Chúng gợi lên những khung cảnh thiên nhiên rộng lớn nhưng vắng vẻ, quạnh hiu. Người yêu thơ cổ sẽ cảm nhận được những khung cảnh quen thuộc như thế này nhiều lần.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Hay
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Và
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Khung cảnh gió đìu hiu không chỉ gợi nhớ đến câu thơ “Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” trong Chinh phụ ngâm, mà cả hình ảnh lớp lớp mây cao đùn núi bạc cũng được lấy cảm hứng từ ý thơ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa” của Đỗ Phủ. Hình ảnh bèo trôi cũng gợi nhớ đến những thân phận trôi nổi, bấp bênh, vô định trước dòng đời, trong khi nỗi nhớ nhà của thi nhân được khơi gợi từ tứ thơ trong Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu.
Thêm vào đó, bút pháp miêu tả cũng góp phần tạo nên chất cổ điển đặc trưng cho bài thơ này. Từ nghệ thuật đối đáp, nét chấm phá đến cách khơi gợi sự tĩnh lặng của cảnh vật đều mang âm hưởng của thơ xưa. Những cái nhỏ bé, ít ỏi được đối lập với không gian mênh mông, bất tận của sông và trời. Tuy nhiên, sự đối lập đó lại là sợi dây kết nối với nỗi lòng thi nhân, tạo nên dư vị đặc biệt từ thơ xưa.
Tác giả sử dụng lối viết Chấm và Xẻ đặc trưng của thơ Đường để miêu tả sự bao la của ngoại cảnh. Trước khi chứng kiến cảnh mặt trời lặn và dòng sông trải dài, nhà thơ đã vẽ sẵn hòn đảo nhỏ với tiếng gió xào xạc và bến Cổ Liêu. Tương tự, ở cuối bài thơ, khung cảnh hùng vĩ, tráng lệ của bức tranh bầu trời chiều tà chỉ được thể hiện qua vài nét vẽ mây cao, cánh chim nghiêng nhỏ, bóng hoàng hôn. Tâm trạng nghệ thuật của phong cảnh được truyền tải trong một vài nét phác thảo, làm nổi bật sự bao la của bầu trời, sự bao la của dòng sông và sự mở rộng vô hạn trong không gian ba chiều.
Dòng sông càng rộng dường như càng vắng vẻ, lặng lẽ. Điều này một phần là do thủ pháp nhân cách hóa được sử dụng như “tiếng buồn xào xạc”, “nước song song”, “trăm nhành sầu”, “lạc vào mấy dòng”, “bến Cổ Liễu”, “bờ xanh êm đềm gặp sóng”. cát vàng.” Các đối tượng dường như không có mối liên hệ hay ràng buộc nào, chỉ nhằm nhấn mạnh trạng thái im lặng và trống rỗng. Ngoài ra, bài thơ sử dụng tối thiểu âm thanh và chuyển động góp phần tạo nên sự tĩnh lặng của các đối tượng. Nếu nói sông Tràng gần như không có tiếng động là gần như tĩnh lặng thì cũng chính xác. Từ sóng đến thuyền, gió, mây và chim, mọi thứ đều tĩnh lặng và u sầu. Tiếng chợ chiều xa xa có nghe được hay không vẫn chưa chắc chắn, vì nó bị bỏ lại trong tình trạng nghi ngờ. Đó có thể là do chuyển động đứt quãng, tách rời của con thuyền trở về nước, mặt trời lặn sâu vào chân trời, hay sự khẩn trương của thời khắc hoàng hôn với tầng lớp mây cao, núi bạc, chim nghiêng mình nhỏ. cánh: bóng hoàng hôn. Đây là cách thơ xưa tạo ra một không gian rộng lớn trong sự tĩnh lặng hoàn toàn. Những ý nghĩa tượng trưng được gửi gắm qua cảnh vật sẽ đánh thức nỗi sầu, sự cô đơn của nhà thơ.
Một trong những nét đặc sắc góp phần tạo nên hương vị cổ điển cho bài thơ là cách sử dụng ngôn ngữ, thể thơ, nhịp điệu. Đoạn thơ gợi lên cái hồn của dĩ vãng xa xưa qua cách nhà thơ Huy Cận sử dụng từ cổ một cách sáng tạo. Hơn mười từ cổ được sử dụng trong mười sáu dòng thơ, chẳng hạn như “điệp điệp”, “song ca”, “lộ thơ”, “diệu hiêu”, “chọt bầu”, “mến mong”, “lãng le”, “lop lop,” và “don don.” Những từ cổ này tạo cảm giác buồn và sâu lắng gợi nhớ đến thơ xưa. Thể thơ thất ngôn, ngắt nhịp 4/3 rất quen thuộc góp phần tạo nên âm điệu cổ điển cho bài thơ.
Tuy nhiên, thành công vượt trội của Tràng Giang nằm ở sự kết hợp nhuần nhuyễn và sáng tạo của hai yếu tố: cổ điển và hiện đại. Màu sắc hiện đại mang lại ý nghĩa và giá trị sâu sắc cho bài thơ. Tràng Giang tuy sử dụng nhiều chất liệu cổ nhưng ta cũng nhận thấy nhiều hình ảnh, âm thanh đời thường khác với thơ cổ như củi khô, tiếng chợ chiều, lục bình trôi. Lần đầu tiên trong thơ xuất hiện một thứ không còn sống nhưng lại có ý nghĩa sâu xa như một khúc củi khô. Nó lột tả những cảm xúc của một tâm hồn cô đơn lạc lõng, bấp bênh trước vinh hoa phú quý của cuộc đời, như củi khô. Huy Cận đã lựa chọn một cách thận trọng hình ảnh này, nó không chỉ truyền tải tính hiện đại mà còn thể hiện hiệu quả tình cảm của cái tôi thơ. Lục bình tuy là hình ảnh thơ ca quen thuộc nhưng Huy Cận không dùng đến một mà dùng đến một chuỗi lục bình trôi, tượng trưng cho sự bấp bênh, không biết đích đến. Huy Cận không gợi về một thân phận hay một con người cụ thể mà là một thế hệ người sống trong thời đại đó. Nhiều nghệ sĩ như anh đã trôi nổi và trôi dạt trong thời đại khó khăn này. Chất hiện thực và chất hiện đại của Huy Cận được chuyển tải qua những hình ảnh này. Bởi vậy, trước khi gửi gắm tâm sự của một cái tôi “mâu thuẫn mà bất lực”, những hình ảnh ấy lại thấm đẫm một vẻ đẹp rất đời thường, đời thường. Giữa cái bao la, rộng lớn của Tràng Giang, ta vẫn thấy vẻ đẹp và sự gần gũi của quê hương, đất nước thân yêu. Nhiều nghệ sĩ như anh đã trôi nổi và trôi dạt trong thời đại khó khăn này. Chất hiện thực và chất hiện đại của Huy Cận được chuyển tải qua những hình ảnh này. Bởi vậy, trước khi gửi gắm tâm sự của một cái tôi “mâu thuẫn mà bất lực”, những hình ảnh ấy lại thấm đẫm một vẻ đẹp rất đời thường, đời thường. Giữa cái bao la, rộng lớn của Tràng Giang, ta vẫn thấy vẻ đẹp và sự gần gũi của quê hương, đất nước thân yêu. Nhiều nghệ sĩ như anh đã trôi nổi và trôi dạt trong thời đại khó khăn này. Chất hiện thực và chất hiện đại của Huy Cận được chuyển tải qua những hình ảnh này. Bởi vậy, trước khi gửi gắm tâm sự của một cái tôi “mâu thuẫn mà bất lực”, những hình ảnh ấy lại thấm đẫm một vẻ đẹp rất đời thường, đời thường. Giữa cái bao la, rộng lớn của Tràng Giang, ta vẫn thấy vẻ đẹp và sự gần gũi của quê hương, đất nước thân yêu.
Nhà thơ Huy Cận đã thể hiện tính hiện đại trong bài thơ Tràng giang bằng cách truyền tải những cảm xúc chân thật nhất của một tâm hồn bị lạc lõng, cô đơn trước cuộc sống. Ông đã mô tả một khung cảnh rộng lớn, mênh mông thuộc về vũ trụ trên dòng sông Tràng để tìm chốn ẩn náu cho cái tôi của chính mình. Từ cảm xúc bất lực của thế hệ đương thời trong hoàn cảnh mất nước, ông đã tái hiện một bức tranh nhỏ bé trên dòng sông Tràng, nơi cái tôi của ông gửi sóng lòng theo nỗi buồn điệp điệp, nỗi sầu trăm ngả, cành củi khô lạc mấy dòng, chiếc cồn nhỏ gió đìu hiu, cái bến cô liêu, những hàng bèo nối tiếp nhau… Những tâm sự đó thể hiện niềm yêu quê hương, đất nước thầm kín của cái tôi đương thời. Điều đó tạo nên dấu ấn riêng cho cái tôi của ông, không lẫn vào tinh thần chung của thơ mới.
Không thể phủ nhận, giá trị của bài thơ Tràng giang chính là ở phong cách nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại của ông. Phong cách này được thể hiện rõ trong bài Tràng giang và nhiều bài thơ khác của ông trước cách mạng, góp phần làm nên sự phong phú, sáng tạo và độc đáo của phong trào thơ mới. Huy Cận không chỉ là một “hồn thơ ảo não”, mà còn là một nhà thơ có phong cách nghệ thuật đặc trưng vừa cổ điển vừa hiện đại.
3. Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang hay chọn lọc:
Bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận được viết vào năm 1939, in trong tập “Lửa Thiêng”, và được xem là một trong những bài thơ hay nhất và tiêu biểu nhất cho phong cách thơ của ông trước cách mạng tháng Tám. Cảm xúc thơ trong bài được khơi gợi chủ yếu từ cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước.
Tựa đề “Tràng Giang” xuất phát từ nghĩa Hán-Việt, trong đó “Tràng” có nghĩa là dài, “Giang” có nghĩa là sông, khi kết hợp lại “Tràng Giang” mang nghĩa là “Sông Dài”. Tuy nhiên, tại sao Huy Cận lại không đặt nhan đề của bài thơ là “Sông Dài” mà lại lấy là “Tràng Giang”? Bởi vì “Tràng Giang” mang một sắc thái cổ kính, trang nhã, và vần “ang” gợi nên sự mênh mang, bát ngát của sóng nước, còn là nỗi niềm của nhà thơ cũng mênh mang, vô định. Hai từ “Tràng Giang” như cho ta một nét buồn man mác, mang màu sắc cổ điển.
Cảnh “trời rộng sông dài” cũng bộc lộ nên tình người “bâng khuâng”. Bên cạnh đó, câu đề từ cũng gợi ra nét nhạc chủ âm cho bài thơ. Hình ảnh của Tràng Giang hiện lên qua những hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng lại mang nỗi buồn da diết, ví dụ như “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp”. Một hình ảnh đẹp đẽ của sóng gợn những từ ngữ “buồn điệp điệp” ở cuối câu thơ đã làm cho ta cảm nhận được nỗi buồn dạt dào. Hình ảnh “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” vẽ lên vẻ đẹp thiên nhiên tráng lệ, hùng vĩ, nhưng cũng không làm trôi đi nỗi sầu. Câu thơ cuối cùng của bài thơ: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” được gợi từ hai câu thơ trong bài Hoàng Hạc Lâu của nhà thơ Thôi Hiệu thời Đường: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”.
Nhà thơ đã thể hiện vẻ đẹp hiện đại của Tràng Giang bằng bút pháp nghệ thuật tinh tế, đan xen với nét đẹp cổ điển. Những hình ảnh trong bài thơ là những cảnh vật đời thường bình dị, nhưng lại mang ý nghĩa sâu xa. Nhà thơ đã sử dụng những tình tiết như “con thuyền xuôi mái nước song song” để thể hiện sự lẻ loi và sự chia li, đồng thời gợi lên ám ảnh về sự lênh đênh và lạc loài của con người. Hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” cũng thể hiện sự tàn tác và sự li tán. Những hình ảnh khác như “Lơ thơ cồn nhỏ”, “bèo dạt về đâu”, “chim nghiêng cánh nhỏ” đều thể hiện sự cô độc và nỗi buồn trong cuộc sống. Tuy nhiên, vẻ đẹp của Tràng Giang vẫn được thể hiện một cách đặc sắc và không thể phai nhòa trong cảnh vật ảm đạm, đẹp nhưng đầy nỗi buồn.
Bài thơ “Tràng Giang” còn là một ví dụ điển hình cho phong cách thơ của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám, với sự kết hợp tinh tế giữa nét cổ điển và hiện đại. Những hình ảnh, từ ngữ được sử dụng trong bài thơ có tính cổ điển, trang nhã, tuy nhiên lại được đan xen với những chi tiết hiện đại, thể hiện tinh thần thời đại.