Bài thơ "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm là một tác phẩm xuất sắc, phản ánh tư tưởng và tình cảm sâu sắc của nhân dân Việt Nam đối với quê hương, đất nước. Xin mời các em học sinh cùng theo dõi bài viết sau với chủ đề Phân tích tư tưởng Đất Nước của Nhân dân hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Phân tích tư tưởng Đất Nước của Nhân dân hay nhất:
Nhà thơ
Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” có thể nói giống như một sợi chỉ xuyên suốt, chi phối góc nhìn lịch sử của nhà thơ. Nhân dân là người sáng tạo ra đất nước, họ chiến đấu để bảo vệ và làm đẹp cho đất nước. Ở góc độ lịch sử, nhà thơ nhận thức sâu sắc về vấn đề này: Nhân dân chính là những người đã lao động tạo dựng sự sống, chiến đấu bảo vệ đất nước, đồng thời họ cũng là những người gìn giữ và lưu truyền những truyền thống của dân tộc. Nhà thơ thôi thúc tấm lòng độc giả nhìn lại lịch sử hình thành của đất nước qua giọng điệu đầy tâm tình với nhân vật “em”:
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước”
Hai chữ “bốn nghìn năm” nhắc nhở người đọc hãy nhìn lại lịch sử dân tộc với lòng tự hào sâu sắc. Nhìn xa vào 4.000 năm tồn tại của đất nước, chúng ta nhận thấy vai trò quan trọng của người dân trong công cuộc bảo vệ, dựng nước và giữ nước. Cách nói phiếm chỉ về thời gian “năm tháng nào” và phép điệp từ “người người lớp lớp” đã khẳng định và ghi nhận sự đóng góp của hàng triệu người dân Việt Nam trong quá trình xây dựng và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc ở mỗi thời kỳ với lòng biết ơn sâu sắc của tác giả.
“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc, người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”
Nghệ thuật liệt kê cùng phép điệp “con trai, con gái” đã khẳng định một cách chắc nịch rằng chính những con người bình dị đã tạo dựng nên đất nước bằng những đức tính cao quý và phẩm chất cao đẹp: Cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu cùng một yêu nước nồng nàn. Lịch sử của bốn nghìn năm dân tộc đã ghi dấu sự hy sinh thầm lặng của nhân dân trong “bốn nghìn lớp người”:
“Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Nghệ thuật đối lập được sử dụng giữa những câu thơ “Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ” và “Không ai nhớ mặt đặt tên” đã vinh danh những con người vô danh, âm thầm hy sinh vì Tổ quốc. Những câu thơ ngắn cùng nhịp điệu dồn dập và câu hỏi tu từ “Nhưng em biết không?”, phép điệp “nhiều, anh hùng” thể hiện niềm tự hào, biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với những người anh hùng vô danh đã cống hiến, hy sinh cho đất nước. Không chỉ vậy, cặp tính từ chọn lọc “giản dị và bình tâm” cùng phép đối “sống và chết” đã khái quát một bức họa đẹp đẽ về hình ảnh người anh hùng nhân dân. Họ sống giản dị, chiến đấu và hy sinh cho đất nước. Họ đã hy sinh thân mình không để lại tên tuổi trong lịch sử, họ chiến đấu vì một lẽ sống giản dị nhưng cao cả là bảo vệ Tổ quốc. Câu thơ dù ngắn gọn nhưng dạt dào cảm xúc, chứa đựng lòng biết ơn chân thành của Nguyễn Khoa Điềm đối với sự cống hiến âm thầm nhưng to lớn của nhân dân.
Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã mang đến cho tác giả một cái nhìn mới về tiến trình lịch sử của dân tộc, từ đó ông thấy được vai trò quan trọng của người dân trong quá trình đấu tranh và bảo vệ đất nước. Nhân dân đã gìn giữ và nuôi dưỡng những giá trị vật chất, tinh thần của dân tộc. Những con người bình dị của quê hương đã gìn giữ và truyền trao cho thế hệ mai sau tất cả những giá trị văn hóa vật chất, tinh thần để tạo nên sức sống cho đất nước trong quá trình lao động cần cù:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
Đại từ “họ” được lặp lại nhiều lần ở đầu mỗi câu thơ nhấn mạnh vai trò quan trọng của nhân dân trong quá trình lao động để xây dựng sự sống cho đất nước. Lửa và lúa có thể nói là hai yếu tố quan trọng nhất, “gìn giữ ngọn lửa và giống lúa chính là gìn giữ sự sống còn của cộng đồng” (Nguyễn Khoa Diễm). Từ góc nhìn này, nhà thơ muốn khẳng định chính nhân dân – những người bình thường nhất – đã sáng tạo, bảo tồn và truyền tải mọi giá trị văn hóa vật chất, từ những điều nhỏ nhặt, giản dị nhưng vô cùng quan trọng. Hình ảnh “truyền giọng điệu mình cho con mình tập nói”, “gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân” là minh chứng cho vai trò của nhân dân trong quá trình bảo tồn các giá trị văn hóa, tinh thần của dân tộc, đất nước. Đó cũng là mong muốn giữ gìn bản sắc dân tộc của cha ông ta. Các động từ “giữ, chuyền, truyền, gánh” tạo nên hình ảnh những thế hệ con người nối tiếp nhau duy trì cuộc sống và truyền tải những giá trị truyền thống của dân tộc. Họ không màng vất vả, bỏ nhiều công sức vào việc “đắp đập che bờ cho người sau trồng cây hái trái”. Bài thơ nhắc nhở chúng ta lòng biết ơn chân thành đối với thế hệ hiện tại đã kế thừa những thành quả mà thế hệ đi trước đã tạo ra.
Những con người giản dị, hiền lành ấy đã chiến đấu để bảo vệ đất nước và giữ gìn, phát triển truyền thống yêu nước của dân tộc:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Câu điều kiện “có… thì…” được điệp nai lần với phép đối “ngoại xâm”, “nội thù” và các động từ được liệt kê “chống, vùng lên, đánh bại” khẳng định tinh thần sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước của nhân dân. Lời thơ chính là niềm tự hào của tác giả về truyền thống yêu nước của dân tộc. Bằng những việc làm bình dị, những hoạt động bình thường trong cuộc sống, những hành động dũng cảm khi đất nước lâm nguy, mỗi thế hệ con người Việt Nam đã gìn giữ, vun đắp và tạo nên những bước tiến lịch sử của dân tộc.
Từ góc độ văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm còn giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc tư tưởng Đất nước của nhân dân qua lối sống, tâm hồn, nhân cách của con người Việt Nam. Nhà thơ tiếp tục khái quát, khẳng định tư tưởng cốt lõi: nhân dân là những người tạo nên truyền thống văn hóa của dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã viết hoa và nhắc đi nhắc lại từ “Nhân dân” nhằm mục đích ca ngợi, tôn vinh vai trò quan trọng của nhân dân:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Đất Nước của nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Tác giả trở về với ngọn nguồn phong phú của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao để khẳng định truyền thống văn hóa của đất nước được hình thành từ những vẻ đẹp tinh thần của nhân dân:
“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù không sợ dài lâu”
Bốn câu thơ được lấy từ ý của ba câu ca dao, khái quát ba phương diện quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của dân tộc. Đó là tình cảm, lao động và chiến đấu. Yêu say đắm, thủy chung, coi trọng tình nghĩa hơn vật chất và tinh thần bất khuất, bền bỉ chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ cuộc sống yên bình cho đất nước. Vận dụng một cách sáng tạo các câu ca dao, Nguyễn Khoa Điềm đã cho ta thấy có sự đồng điệu trong tâm hồn của cha ông từ ngàn xưa và thế hệ trẻ hôm nay.
Thán từ “Ôi”, câu hỏi tu từ và hình ảnh “về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát” đã nhấn mạnh đặc điểm riêng về địa lý, văn hóa của đất nước ta:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát”
Đất nước ta mang dấu ấn sâu sắc của nền văn minh sông nước, đất nước của những câu hò, điệu lý, lời ca. Câu hát trên dòng sông gắn liền với các công việc lao động “chèo đò, kéo thuyền, vượt thác” gợi lên tinh thần lạc quan, hăng say lao động của những con người bình dị.
“Người đến hát khi chèo đò, lái thuyền, vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Chính họ cùng với những bài ca lao động đã “gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” và tạo nên vẻ đẹp mỹ miều nhất cho những dòng sông của Tổ quốc, góp phần tô điểm, tạo nên vẻ đẹp cho mảnh đất. Từ góc độ văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh bằng vốn kiến thức sâu rộng của mình rằng nhân dân chính là chủ thể tạo nên bản sắc văn hóa của đất nước. Đoạn thơ này đã thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân, tư tưởng mang tính chân lý được tác giả đúc kết từ kiến thức sách vở và kinh nghiệm sống.
Việc sử dụng thể thơ tự do một cách sáng tạo, nhịp điệu biến đổi linh hoạt cùng các phép điệp được sử dụng hiệu quả đã mang lại giá trị thẩm mỹ cho đoạn thơ. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng những hình ảnh, từ ngữ giản dị và tinh tế có chọn lọc, giúp người đọc nhận thấy rõ ràng rằng chính nhân dân đã tạo nên đất nước, tạo nên sự sống và duy trì những phong tục, văn hóa của dân tộc.
Có thể nói, đoạn thơ chính là tình yêu và niềm tự hào của Nguyễn Khoa Điềm đối với vai trò của nhân dân người trong việc xây dựng và làm đẹp đất nước. Đó là kết tinh của những tình cảm mãnh liệt và chiêm nghiệm sâu sắc về đất nước, về vai trò của con người cũng như là tiếng lòng chân thành của thế hệ trẻ đối với cội nguồn của dân tộc, với truyền thống, phong tục do nhân dân sáng tạo nên bảo tồn và truyền lại cho con cháu mai sau. Đóng góp đặc biệt của đoạn trích chính là sự nhấn mạnh, tập trung vào tư tưởng “đất nước của nhân dân” một cách triết lý, thông qua hình thức biểu đạt giàu suy tư, giọng thơ chính trị trữ tình sâu lắng, thiết tha.
2. Phân tích tư tưởng Đất Nước của Nhân dân ấn tượng:
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trường ca “Mặt Đường Khát Vọng” là một kiệt tác có vẻ đẹp độc đáo, được sáng tác năm 1971 tại núi rừng chiến khu Trị – Thiên. Bài “Đất nước” là chương thứ V của trường ca này. Trong đoạn thơ ấy, tác giả đã sử dụng một cách sáng tạo các chất liệu – thi liệu từ tục ngữ, ca dao, từ truyện cổ, truyền thuyết đến phong tục, ngôn ngữ,… của nền văn hóa dân tộc Việt Nam nhằm khơi nguồn cảm hứng về Đất Nước, một Đất Nước có cội nguồn xa xưa, một Đất Nước của Nhân Dân vĩnh hằng muôn thuở.
Trước tiên, tám câu thơ đầu nói về hình tượng Đất Nước hùng vĩ và giang sơn gấm vóc. Ở khắp mọi miền của đất nước, đâu đâu cũng có những danh lam thắng cảnh. Núi Vọng Phu và hòn Trống Mái đã đi vào huyền thoại cổ tích. Ngọn núi đó, hòn ấy là do “những người vợ nhớ chồng” hoặc cặp vợ chồng yêu nhau mà đã “góp cho”, “góp nên” làm tô điểm đẹp thêm cho Đất Nước. Như vậy, Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn khám phá, nhân văn.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”.
Núi Vọng Phu Ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định,… hòn Trống Mái ở Sầm Sơn không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Vợ có “nhớ chồng”, cặp vợ chồng có “yêu nhau” thì mới “góp cho Đất Nước”, mới “góp lên” những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái ấy. Tình yêu lứa đôi có thắm thiết, tình nghĩa vợ chồng có chung thủy thì Đất Nước mới có tượng hình kỳ thú ấy. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã vượt lên lối liệt kê tầm thường để có một cách nhìn, một cách diễn đạt mới mẻ, nhân văn.
Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp của Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống. Cái “gót ngựa của Thánh Gióng” đã để lại cho đất nước Việt Nam bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày này, 99 núi con voi ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức, chung lòng “góp mình dựng đất tổ Hùng Vương”. Các từ ngữ “đi qua còn…để lại”, “góp mình dựng” đã thể hiện một cách bình dị mà tự hào về sự thiêng liêng của Tổ quốc, về khí phách anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Đất Nước:
“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”.
Đất Nước ta có núi cao, biển rộng, sông dài. Có sông Hồng Hà “đỏ nặng phù sa”. Có sông Mã “bờm ngựa phi thức trắng”. Và còn có Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa:
“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”.
Rồng đã “nằm im” từ bao đời nay mà vùng Nam Bộ mến yêu có “dòng sông xanh thẳm” cho quê hương nhiều nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông biển lúa bốn mùa. Phải chăng thông qua vẻ đẹp dòng sông Chín Rồng, nhà thơ đang ca ngợi sự gấm vóc của đất nước và sự rất đỗi tài hoa của con người Việt Nam?
Quảng Nam, Quảng Ngãi quê hương của Hoàng Diệu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,… có núi Ân sông Đà, có núi Bút non Nghiên. Ngắm núi Bút non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm không nói về “địa linh nhân kiệt” mà nghĩ về người học trò nghèo, về truyền thống hiếu học và tấm lòng tôn sư trọng đạo của nhân dân ta:
“Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên”
Dù nghèo mà người học trò vẫn “góp cho” Đất Nước ta núi Bút non Nghiêm, làm rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt. Dù nghèo vật chất mà giàu trí tuệ tài năng, Hạ Long đã trở thành kỳ quan, thắng cảnh là nhờ có “con cóc, con gà quê hương cùng góp cho”. Và những tên làng, tên núi, tên sông như Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ở vùng cực nam xa xôi của Đất Nước đã do “những người dân nào đã góp tên” đem mồ hôi, xương máu, bạt rừng, lấn biển, đào kênh, bắt sấu, săn hổ,… làm nên. Có thể nói rằng, nhà thơ đã sử dụng một cách nói bình dị mà thấm thía để ca ngợi đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân Việt Nam, khẳng định nhân dân ta vô cùng vĩ đại, là chủ nhân đã “làm nên đất nước muôn đời”:
“Con cóc con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”.
Tám câu thơ với biết bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ liệt kê thể hiện niềm tự hào và biết ơn Đất Nước cùng Nhân Dân. Dưới ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm, các thi liệu – hình ảnh: Người vợ, cặp vợ chồng, gót ngựa, 99 con voi, con rồng, người học trò nghèo, con cóc con gà, những người dân nào,… mang ý nghĩa tượng trưng cho tâm hồn trung hậu, trí tuệ và tài năng, đức tính cần cù và tinh thần dũng cảm,… của nhân dân ta qua trường kỳ lịch sử. Chính nhân dân vĩ đại đã “góp cho”, “góp nên”, “để lại”,… đã làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp. Nhà thơ đã đem đến cho những động từ – vị ngữ ấy (góp cho, góp nên…) nhiều ý nghĩa mới mẻ, nhiều sắc thái biểu cảm với bao liên tưởng đầy tính nhân văn.
Qua bốn câu thơ ở cuối đoạn, giọng thơ vang lên say đắm, ngọt ngào. Từ cụ thể, thơ được nâng lên tầm khái quát, tính chính luận kết hợp một cách hài hòa với chất trữ tình đằm thắm:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
“Ruộng đồng gò bãi” chính là hình ảnh của quê hương, đất nước. Tên núi, tên sông, tên làng, tên đồng ruộng, tên bản, tên gò bãi,… khắp nơi trên đất nước Việt Nam thân yêu đều mang theo “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Hình tượng đất nước cũng chính là tinh thần, phong cách, ước mơ và khát vọng của cha ông ta suốt bốn nghìn năm lịch sử dựng nước. “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” là một lời thơ rất hay, rất đẹp nhằm tôn vinh tâm hồn Việt Nam và nền văn hóa Việt Nam. Chữ “một” được lặp lại 3 lần, chữ “ta” được láy lại 2 lần kết hợp với từ “ôi” cảm thán đã tạo nên những vần thơ du dương về mang nhạc điệu, say đắm, tự hào về cảm xúc.
Tầm vóc của Đất Nước và dân tộc được hiện lên không chỉ ở mức độ rộng lớn trên bình diện địa lí “mênh mông” mà còn theo dòng chảy của thời gian và lịch sử bốn nghìn năm “dài đằng đẵng”. Đoạn thơ đã thể hiện được cái hay, cái đẹp trong tinh thần thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Câu thơ mở rộng đậm chất văn xuôi. Yếu tố chính luận cùng chất trữ tình, chất cảm xúc hòa quyện làm cho chất thơ trở nên dào dạt. Đất nước hùng vĩ, nhân dân anh hùng, cần cù, hiếu học, ân nghĩa thủy chung được,… nhà thơ cảm nhận với tất cả lòng yêu mến tự hào. Chất liệu văn hóa dân gian cũng được tác giả vận dụng một cách sáng tạo.
Qua hình tượng Đất Nước mà nhà thơ ca ngợi tâm hồn Nhân Dân, khẳng định bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Việt Nam. Thiên nhiên Đất Nước đã được Nhân Dân sáng tạo nên. Nhân Dân là chủ nhân của Đất Nước. Bài thơ đã khơi gợi hồn người trở nên trong sáng, phong phú và cao thượng. Đoạn thơ như một tiếng nói tâm tình “dịu ngọt”, nhà thơ như đang đối thoại cùng ta về Đất Nước và Nhân dân. Đọc lại đoạn thơ, lòng mỗi chúng ta bâng khuâng, xúc động nghĩ về hai tiếng Việt Nam thân thương, ta cảm thấy hãnh diện và lớn lên cùng Đất Nước.
3. Phân tích tư tưởng Đất Nước của Nhân dân ngắn gọn:
Trong bản hợp xướng của thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đã nổi lên những âm vang trầm hùng, sâu lắng, thiết tha về đất nước. Đất nước hiện lên qua màu xanh “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy, trong dòng hồi cuồn cuộn trên “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh, “Những người đi tới biển” của Thanh Thảo. Đất nước đó cũng rung lên mạnh mẽ khi tuổi trẻ không yên những tà áo trắng đã xuống đường trong “Mặt đường khát vọng” (1974) của Nguyễn Khoa Điềm. Trong bản trường ca chính chương sôi sục nhiệt huyết của tuổi trẻ trước vận mệnh dân tộc, ông đã giành hẳn một chương (V) để nói về đất nước:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” đã thấm nhuần trong cả chương thơ về “Đất Nước”. Chúng ta có thể dễ nhận ra trước tiên tác giả đã sử dụng rộng rãi các chất liệu văn hóa dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến cuộc sống dân dã hàng ngày như miếng trầu, hạt gạo, hòn than, cái kèo, cái cột. Các chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật hết sức quen thuộc, gần gũi mà sâu xa, bay bổng của nền văn hóa dân gian Việt Nam bền vững, độc đáo. Đây không chỉ là sự vận dụng sáng tạo truyền thống văn hóa dân gian mà còn thấm nhuần quan niệm về “Đất Nước của nhân dân”, thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi ấy trong cảm hứng và sáng tạo hình ảnh thơ của tác giả:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa… mẹ thường hay kể”
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ của mình về đất nước bằng giọng thơ tâm tình như lời kể chuyện cổ tích. Cảm hứng phóng túng, tự do, tuy vậy nhưng vẫn có một hệ thống lập luận chặt chẽ và rõ ràng. Tác giả đã tập trung trình bày đất nước ở những khía cạnh chính: Đất nước trong chiều thời gian lịch sử (từ quá khứ đến hiện tại và tương lai); trong chiều rộng của không gian, lãnh thổ và địa lý; cuối cùng là về chiều sâu văn hóa và tinh thần. Ba khía cạnh này được thể hiện trong sự thống nhất. Nhiều khi một chi tiết đưa ra cùng nói về mấy cả phương diện ấy của đất nước. Nhưng dù là trong phương diện nào, quan niệm “Đất Nước của nhân dân ” là tư tưởng cốt lõi, là sợi chỉ đỏ xâu chuỗi mọi cảm xúc, suy tưởng cụ thể, qua đó tác giả có những khám phá mới mẻ và sâu sắc.
Nói về lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử liệu như nhiều nhà thơ khác. Ông dùng lối kể đậm đà của dân gian:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh thơ trên phải chăng đã gợi cho người đọc về sự tích trầu cau từ đời Hùng Vương dựng nước xa xưa, về truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân đã đi vào lịch sử? Có nghĩa là lịch sử đất nước được đọng lại trong từng câu chuyện được kể, hiện hình trong miếng trầu bây giờ bà ăn, trong trồng tre mà đánh giặc. Hay nói cách khác, đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức của mỗi người dân, trường tồn trong đời sống tâm hồn của nhân dân qua bao thế hệ. Đó cũng chính là Đất Nước của nhân dân.
Chính vì vậy, khi suy nghĩ về mấy ngàn năm lịch sử của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã không điểm lại các triều đại từ Triệu, Đinh, Lý, Trần đã gây dựng nên nền độc lập của dân tộc và cũng không nhắc lại tên tuổi của những anh hùng đã lưu danh trong sử sách như bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,… mà đặc biệt nhấn mạnh để muôn ngàn những con người bình dị vô danh:
“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Những con người vô danh ấy chính là nhân dân đã tạo dựng và gìn giữ đất nước trải qua mọi thời đại. Họ không chỉ đánh giặc ngoại xâm mà còn là người sáng tạo, truyền lại mọi giá trị vật chất và tinh thần cho các thế hệ sau này:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh tên làng tên xã trong mỗi chuyến di dân”
Cùng với thời gian đằng đẵng là không gian mênh mông được tạo lập từ thuở sơ khai với truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ: “Đất là nơi chim về – Nước là nơi rồng ở”. Một đất nước đẹp đẽ và thiêng liêng biết bao! Thế nhưng đất nước cũng là không gian gần gũi với cuộc sống hàng ngày của mỗi người dân “Đất là nơi anh đến trường – Nước là nơi em tắm” và đất nước ấy đã chứng kiến những mối tình đầu của biết bao lứa đôi:
“Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Từ quan niệm “Đất Nước của nhân dân”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện vô cùng sâu sắc và mới mẻ về vẻ đẹp thiên nhiên của đất nước và con người, mà trước hết là vẻ đẹp những con người hết sức bình thường. Chính những con người bình thường ấy đã làm nên vẻ đẹp muôn đời của đất nước, một vẻ đẹp không chỉ mang màu sắc gấm vóc của non sông mà còn là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn, truyền thống dân tộc:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại”
Rồi người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên, cho đến những địa danh thật nôm na bình dị. Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm. Từ đó, tác giả đã đi tới một nhận thức khái quát sâu xa:
“Ôi! Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta”
Chính đất nước ấy có một bề dày văn hóa và tinh thần cốt cách của Việt Nam. Tương tự như hai phương điện trên, chiều sâu văn hóa không được bàn đến qua những danh nhân văn hóa nổi tiếng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm,… mà nó được thể hiện ở nguồn văn hóa dân gian phong phú, tôn vinh truyền thống tinh thần và vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân thấm nhuần sâu sắc tư tưởng “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Trong kho tàng văn hóa to lớn này, tác giả tìm thấy những vẻ đẹp độc đáo của tinh thần và tính cách Việt Nam. Đó là say đắm và thuỷ chung trong tình yêu: Yêu nhau từ thuở trong nôi; cha mẹ yêu nhau bằng gừng cay muối mặn; Biết quý trọng tình nghĩa: Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội. Nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù: Biết trồng tre đợi ngày thành gậy – Đi trả thù không sợ dài lâu. Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện ba khía cạnh quan trọng nhất của nhân dân một cách sâu sắc qua làn điệu dân ca đẹp đẽ – tiếng nói của nhân dân trải qua mọi thời đại.
Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là Đất Nước của Nhân Dân, của ca dao thần thoại. Những thi liệu dân gian đậm chất thơ được kết hợp với những suy nghĩ giàu chất trí tuệ đã tạo nên nét đặc sắc cho tác phẩm. Đây là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu đậm thêm cho ý niệm về đất nước của thơ ca chống Mỹ.
THAM KHẢO THÊM: