Truyện ngắn Bức tranh được rút trong tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), đây là một truyện ngắn đặc sắc, mang đậm phong cách của Nguyễn Minh Châu thời kì đổi mới. Truyện ngắn xoay quanh nhân vật là một họa sĩ tài hoa và hành trình đấu tranh, tự vấn lương tâm của bản thân ông. Hãy phân tích truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu?
Mục lục bài viết
1. Phân tích truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu:
Truyện ngắn Bức tranh được rút trong tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), đây là một truyện ngắn đặc sắc, mang đậm phong cách của Nguyễn Minh Châu thời kì đổi mới. Qua lời “tự thú” trong bức chân dung tự họa của một họa sĩ khi nhìn nhận lại những lỗi lầm của chính bản thân mình, nhà văn đã gửi đến chúng ta thông điệp về sự dũng cảm đối mặt, về vẻ đẹp của sự bao dung và nhân hậu của con người.
Truyện ngắn xoay quanh nhân vật là một họa sĩ tài hoa và hành trình đấu tranh, tự vấn lương tâm của bản thân ông, quá trình “tự thú” để chiến thắng cái ích kỉ nhỏ nhen, hướng đến cái tốt đẹp. Tám năm trước, khi đang còn chiến tranh, trên đường mang các tác phẩm của mình từ chiến trường trở về phục vụ cho triển lãm ở nước ngoài thì họa sĩ gặp gỡ một anh chiến sĩ làm nhiệm vụ dẫn đường và “thồ tranh” cho mình. Anh lính nhờ họa sĩ vẽ mình nhưng mà đã bị lạnh lùng từ chối, sau đó, trên chặng đường nguy hiểm, do cảm phục sự cứu giúp và độ lượng của anh lính mà họa sĩ đã vẽ một bức “ảnh truyền thần” cùng lời hứa sẽ mang bức tranh về gửi đến cho người mẹ ở hậu phương đang trông ngóng tin con. Tuy nhiên, khi trở về, họa sĩ đã quên mất lời hứa năm xưa, mang bức tranh đi triển lãm nước ngoài và đạt được thành công lớn. Hiện tại, vô tình người họa sĩ tạt vào một quán cắt tóc và nhận ra người thợ cắt tóc chính là người chiến sĩ thồ tranh mà mình đã thất hứa trong năm xưa. Trong nội tâm người họa sĩ đã diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa việc dũng cảm đối mặt với người lính đó để thừa nhận lỗi lầm của mình và coi như chưa từng quen biết người đó. Cuối cùng, họa sĩ cũng đã chiến thắng phần ích kỉ, hèn nhát của mình để dũng cảm nhận lỗi lầm, hoàn thành được bức tranh sơn dầu tự họa bản thân với “đôi mắt mở to, khắc khoải, bồn chồn, đầy nghiêm khắc, đang nhìn vào nội tâm”.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm cùng với sự xuất hiện của hình tượng bức tranh xuyên suốt đầu và cuối tác phẩm đã cho ta thấy được cuộc đấu tranh nội tâm của người họa sĩ về những lỗi lầm của mình trong quá khứ và cả sự dũng cảm đối mặt với hiện thực. Ông họa sĩ là một người tài ba, hết mình vì nghệ thuật, trong thời gian còn ở chiến trường đã vẽ được nhiều tác phẩm phục vụ nghệ thuật và cuộc sống. Khi ở chiến trường giáp với biên giới Tây Nam Bộ, trong chuyến ra Bắc, họa sĩ gặp một người lính tha thiết nhờ ông vẽ cho một bức tranh nhưng ông đã “khéo léo từ chối bằng bộ mặt lạnh lùng” để rồi ngay hôm sau ông thấy khó xử khi người chiến sĩ dẫn đường và thồ tranh cho ông chính là người mà đã nhờ ông vẽ tranh.
Họa sĩ đã là người tự trọng, nhiệt tâm nhưng lại bị vòng xoáy của danh vọng làm quên đi lời hứa của năm xưa: khi được người lính cứu và hỗ trợ mang vác đồ, họa sĩ đã vẽ một bức tranh để đền đáp sự độ lượng của anh và hứa mang về cho người mẹ đang ngóng trông tin con mình, tưởng con đã hi sinh. Trở về Hà Nội, ông mang bức tranh đi triển lãm ở nước ngoài và cũng được đánh giá cao. Ông đã quên bẵng đi lời hứa năm nào. Tám năm sau, vô tình gặp lại người lính năm xưa ở tại Hà Nội, nay đã là một người thợ cắt tóc, họa sĩ cảm thấy xấu hổ và “chỉ muốn có một cái mặt nạ, hoặc bé xíu lại như một hạt đậu, trên cái ghế cắt tóc” để che lấp đi nỗi xấu hổ khi đã thất hứa, dù lúc ở chiến trường đã tâm niệm rằng “giá có phải chạy qua làn đạn của địch, hay băng qua ngọn lửa, thì tôi cũng quyết định sẽ vượt qua, để đưa được tấm hình về trao tận tay những người trong gia đình anh, để đền đáp được chút ít tấm lòng độ lượng quá lớn lao nhưng lặng lẽ mà anh đã đối xử với tôi”. Lúc này, họa sĩ đã trải qua cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt. Ông đối diện với bức chân dung tự họa của mình và độc thoại với nội tâm giữa phần tốt đẹp với phần xấu xa, phần dũng cảm nhận lỗi và phần hèn nhát trốn tránh. Ông vòng đi vòng lại rất nhiều lần qua quán cắt tóc, nghe ngóng thông tin từ những người xung quanh, hỏi chuyện vợ anh thợ… để tìm hiểu rõ về mọi chuyện nhằm bớt đi sự áy náy về lỗi lầm của mình khi xưa đã khiến bà mẹ anh thợ bị lòa. Họa sĩ đấu tranh để tìm ra cách giải quyết, thậm chí ông tính trốn tránh bằng cách là “vay mượn gom góp một số tiền lớn, cái số tiền mà tôi đã thu được nhờ bức ký họa chân dung kia, bí mật gửi cho anh” nhưng để rồi cuối cùng thì “vẫn không cho phép mình lấy đồng tiền để thay cái mặt mình” và quyết định trở lại quán để gặp anh thợ. Ông đã tưởng tượng ra cuộc trò chuyện với anh thợ trong tâm tưởng, đối thoại với anh thợ cắt tóc qua hình gương để đặt ra các tình huống, tâm trạng… Cuối cùng, ông họa sĩ đã hoàn thành được bức chân dung tự họa với “đôi mắt mở to, khắc khoải, bồn chồn, đầy nghiêm khắc, đang nhìn vào nội tâm.” Qua chính cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt của ông họa sĩ, tác giả gửi đến người đọc thông điệp rằng: Hãy biết dũng cảm đối mặt với chính những sai lầm của mình, nhìn vào thế giới nội tâm của mình để vượt lên trên sự ích kỉ xấu xa, hướng đến những vẻ đẹp của cái thiện, cái tốt trong tâm hồn mỗi người.
Bên cạnh đó, tác phẩm còn làm nổi bật vẻ đẹp cao thượng, bao dung của anh chiến sĩ và lời đề tỉnh mọi người hãy nhìn nhận thấu đáo, hãy suy nghĩ về cách sống, lối ứng xử trong cuộc sống. Anh chiến sĩ là người tình cảm, rất yêu thương gia đình. Anh là con một, xa gia đình đi B, mẹ anh lại nhận được tin anh hi sinh nên anh vô cùng lo lắng cho mẹ của mình. Tuy vậy, khi gặp ông họa sĩ và “tha thiết thỉnh cầu tôi vẽ cho anh một bức chân dung” để gửi về cho người mẹ già đang trông ngóng mà không được đồng ý thì lúc đó anh chỉ “lẳng lặng quay lưng lại tôi, chậm rãi đi xuống dưới những cái bậc dốc”. Anh rất nhiệt tình, có trách nhiệm và không để cảm xúc cá nhân ảnh hưởng đến công việc. Dù đang ốm, ở rừng đã lâu với “nước da xam xám và cặp môi thâm sì” nhưng anh cố gắng để giúp đỡ người khác khi quay nhanh trở lại “cởi chiếc ba lô sau lưng cho tôi, khoác vào trước ngực mình. Anh đã đỡ lấy tôi, giúp tôi rút cái chân lên. Rồi dìu tôi đi”. Anh vừa phải “thồ” đống tranh ở sau lưng “to và nặng gấp đôi một cái ba lô bình thường của khách đi đường” lại vừa phải mang thêm cả chiếc ba lô của họa sĩ trước ngực – “có lẽ tất cả đến sáu bảy chục cân”. Có thể nói, anh chiến sĩ là một người bao dung, độ lượng, đúng như lời ông họa sĩ đã nhận xét rằng “Giá như người chiến sĩ tỏ thái độ lạnh nhạt hoặc mặc xác tôi nằm lại một mình, tập tễnh đi một mình giữa rừng, thì tôi cũng thấy đó là cái lẽ phải. Xưa nay tôi vẫn quan niệm rằng: sống ở đời, cho thế nào thì sẽ nhận thế ấy. Cái cách cư xử của người chiến sĩ đối với tôi chỉ có thể giải thích bằng lòng độ lượng.”. Sau này, khi đã gặp lại ông họa sĩ với cương vị người thợ cắt tóc, anh cố tình không nhận người họa sĩ để tránh cho ông khỏi xấu hổ. Với chi tiết “chiếu thẳng về phía tôi một cái nhìn ban đầu soi mói, ngạc nhiên, rồi hơi nghiêm mặt lại. Nhưng những diễn biến phản ứng ở trên cái mặt người thợ chỉ diễn ra nhanh như một cái chớp mắt.” đã chứng tỏ điều đó, thể hiện được sự bao dung, cao thượng của anh. Qua hình ảnh người lính thồ tranh trong cung đường thời chiến và anh thợ cắt tóc lặng lẽ ở thời bình, tác giả muốn gửi đến chúng ta sự trân trọng, yêu mến đối với vẻ đẹp của sự cao thượng, sự bao dung của anh. Đồng thời, tác giả gửi gắm đến người đọc thông điệp hãy sống chậm lại, hãy dành một phút để nhìn nhận về nội tâm, suy ngẫm về cách sống, lối ứng xử của bản thân mình – “Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về chính mình.”
Ta cũng thấy được những trăn trở về sự thành công của nghệ thuật khi kiếm tìm vẻ đẹp trong tâm hồn của con người thể hiện qua hình tượng bức tranh xuyên suốt tác phẩm. Bức chân dung mà ông họa sĩ đã vẽ trong khung cảnh thiếu thốn, vội vàng “chưa đến nửa tiếng đồng hồ”, bức tranh lại bị coi là “tranh truyền thần” không được đánh giá cao về mặt nghệ thuật lại mang đến thành công, đỉnh cao ở trong sự nghiệp của người họa sĩ tài ba trong thời kì chiến tranh, “nghiễm nhiên trở thành một tác phẩm hội họa nổi tiếng của tôi, nó không những ở trong nước, mà cả ở nước ngoài nữa” trong khi “tất cả những số tranh và ký họa mà tôi đã tốn biết bao công phu mang từ trong chiến trường ra chuyến đó, chẳng có một bức nào mà còn lại được”. Bức tranh là hiện thân của nghệ thuật, là sự nảy nở của cái đẹp ở trên nền của sự khốc liệt chiến tranh. Sự thành công của bức tranh phải chăng chính vì trong thời gian vẽ vội vàng, do tài năng của người họa sĩ cùng với sự biết ơn, cảm phục của ông trước sự bao dung độ lượng của anh chiến sĩ thồ tranh nên họa sĩ đã nắm bắt được về nét đẹp bao dung, nhân hậu của anh chiến sĩ và truyền tải nó vào trong bức tranh của mình? Hay như là bức chân dung tự họa của người nghệ sĩ xuất hiện ở đầu và cuối tác phẩm đã thể hiện rất rõ chủ đề của tác phẩm khi mà tìm kiếm vẻ đẹp nội tâm ở trong tâm hồn con người: “thể hiện một cái mặt người rất lớn” với “những luồng ánh sáng hàng nghìn nến từ ngay phía trước và trên đầu chiếu thẳng xuống một nửa mái đầu tóc tốt rợp như một khu rừng đen bí ẩn, và cả một nửa mái tóc đã cắt” cùng với phần bên dưới khuôn mặt như vẫn đang được giấu kín dưới một cái mặt nạ, điểm đặc biệt nổi bật “là đôi mắt mở to, khắc khoải, bồn chồn, đầy nghiêm khắc, đang nhìn vào nội tâm.” Đôi mắt là chi tiết khi mà bức tranh hoàn thành, không có ở đầu tác phẩm. Có thể nói, bức tranh này là một thành công rất lớn, là kiệt tác với người họa sĩ, vì đây là quá trình ông tự vấn lương tâm và đã chiến thắng chính bản thân mình, đã dám dũng cảm đối mặt với lỗi lầm, với quá khứ.
Không chỉ hấp dẫn người đọc bởi thông điệp giàu ý nghĩa, truyện ngắn còn thu hút người đọc bởi cả những nét đặc sắc về mặt nghệ thuật. Tác giả đã sử dụng tình huống và kết cấu truyện đặc sắc để làm nổi bật lên nội dung của câu chuyện. Ông đặt nhân vật vào những tình huống éo le để có thể bộc lộ được rõ nét nhất về tính cách, phẩm chất nhân vật, thể hiện dụng ý của mình. Đó là tình huống người họa sĩ khi còn đang ở chiến trường, lạnh lùng không đồng ý vẽ tranh cho anh chiến sĩ nhưng cuối cùng lại khó xử khi mà chính anh lính đó là người “thồ tranh” cho mình qua những chặng đường nguy hiểm, thậm chí là còn cứu mạng họa sĩ. Hay tình huống người họa sĩ tài ba gặp lại người lính thồ tranh năm xưa, nay đã trở thành một thợ cắt tóc; sự xấu hổ, dằn vặt khi không thực hiện lời hứa mang tranh về khiến người mẹ của anh chiến sĩ bị mù lòa cũng rất éo le. Bên cạnh đó, kết cấu truyện cũng rất đặc sắc, thể hiện ở việc bức tranh người chiến sĩ thồ tranh của quá khứ đặt song song với bức tranh tự họa của người họa sĩ này. Bức tranh tự họa lại được đặt trong lối kết cấu đầu cuối tương ứng, nổi bật với đôi mắt mở khắc khoải, bồn chồn và đầy nghiêm khắc đang nhìn vào nội tâm. Mỗi một bức tranh mang một thông điệp nghệ thuật của nhà văn, được đặt song song với nhau càng làm nổi bật được sự bao dung của anh chiến sĩ và sự tự trách, dũng cảm đối mặt với lương tâm của người họa sĩ.
Trong truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện tài năng của mình ở nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình. Ông xây dựng một nhân vật một cách tinh tế, sắc sảo qua các đoạn độc thoại và đối thoại nội tâm của nhân vật. Qua độc thoại nội tâm, nhân vật họa sĩ đã hiện lên ngay trước mắt người đọc không chỉ là một bài học tư tưởng mà còn là một nhân cách trong quá trình đấu tranh tự hoàn thiện. Ở trong dòng độc thoại nội tâm, nhà họa sĩ tài năng nhìn thẳng vào sâu trong con người mình để tìm ra được nguyên nhân mà ông đã thất hứa, không mang bức tranh về cho người mẹ, khiến cho bà cụ bị lòa. Tác giả đã chia tách con người mình thành hai phần: một phần tốt đẹp, phần thiện và một phần của tính ích kỉ, phần xấu xa; để phần thiên thần – ác quỷ này đấu tranh với nhau. Tác giả còn tưởng tượng ra một cuộc đối thoại nội tâm của bản thân và anh thợ cắt tóc để có thể suy xét đến mọi tình huống có thể, mọi cách ứng xử và lời nói sẽ có thể xảy đến để nhìn nhận vấn đề một cách sâu sắc nhất. Đặc biệt, ông đã sáng tạo một loại hình nhân vật mới đó là nhân vật tư tưởng. Đó là những nhân vật mang đậm dấu ấn của tư tưởng, của sự trăn trở trước các vấn đề mang đậm tính triết lí; những nhân vật nhìn sâu vào nội tâm. Đây chính là nét riêng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Minh Châu, điểm khác biệt để ông được những nhà nghiên cứu đánh giá là “người mở đường tiên phong và tinh anh” cho sự đổi mới của văn học sau năm 1986.
Tác giả còn lựa chọn ngôi kể và điểm nhìn rất hợp lí. Tác giả sử dụng ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn bên trong, đi sâu vào trong thế giới nội tâm của nhân vật để khắc họa rõ nhất những suy nghĩ của nhân vật ông họa sĩ. Bởi câu chuyện chính là lời tự thuật của ông họa sĩ, kể về hành trình từ khi ở chiến trường đến lúc mang bức tranh đi triển lãm, thành đạt ở trong thời bình và vô tình gặp lại anh chiến sĩ thồ tranh xưa, để ông phải nhìn nhận vào sâu trong nội tâm của mình. Là người chứng kiến, người trong cuộc nên để cho người họa sĩ tự nhìn nhận vấn đề là phù hợp nhất. Những trăn trở, day dứt, suy tư của người họa sĩ như là kéo người đọc vào với sự rối ren, dằn vặt của ông, khiến người đọc thêm day dứt, suy nghĩ.
Với những nét đặc sắc về nghệ thuật và sự sâu sắc của nội dung chủ đề, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã dẫn dắt người đọc vào thế giới nghệ thuật của truyện ngắn “Bức tranh” một cách tự nhiên, nhẹ nhàng và để lại nhiều thông điệp sâu sắc khiến ta phải trăn trở, suy tư.
2. Phân tích ngắn gọn truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu:
Bức tranh xoay quanh hai nhân vật chính là đó là họa sĩ và người chiến sĩ. Anh họa sĩ có những trăn trở trong lòng về những điểm khiếm khuyết của chính mình. Giống như những gì chúng ta trông thấy ở người khác, chỉ là vẻ bề ngoài, chỉ là thứ mà người khác muốn thể hiện cho ta xem còn sâu bên trong thì chẳng ai biết được. Câu chuyện về góc tối phía sau ánh hào quang sẽ được hé lộ.
Người họa sĩ trong câu chuyện này là người nghệ sĩ thực thụ. Anh ta có tài năng, đặc biệt trong công việc anh luôn nghiêm túc, chỉn chu với những tác phẩm mình làm ra: “Tôi là một họa sĩ, Tôi không phải là một người viết văn. Tôi phải tự giới thiệu như vậy ngay từ đầu, không hề có một ý muốn mong chờ hay cầu khẩn nơi các bạn đọc một thái độ rộng lượng. Ngay từ đầu, tôi phải nói vậy để tự dặn với mình, tự ra lệnh cho mình, tôi viết chuyện này ra đây là viết cho tôi, cho một bức tranh tôi vừa vẽ xong.”
Bức kí họa “Chiến sĩ giải phóng quân” của anh nhận được sự yêu mến từ rất nhiều người, vậy nên họ đã bắt đầu hỏi để được mua về trưng bày. Người họa sĩ tự biết bản thân mình vẫn còn có rất nhiều điều thiếu sót cần được học hỏi. Khi người họa sĩ mang theo những bức họa của mình lên đường công tác thì lúc đó không may anh bị trượt chân và bị thương, trong cái họa có cái may, anh đã được người chiến sĩ giúp đỡ: “Người chiến sĩ thồ tranh cho tôi đang đi phía trước, cách một quãng khá xa, vội vã quay lộn lại. Nếu như anh không đến kịp có lẽ là tôi bị dòng suối cuốn đi. Anh cởi chiếc ba lô ở sau lưng cho tôi, khoác vào trước ngực mình. Anh đỡ lấy tôi, giúp tôi rút cái chân lên. Rồi dìu tôi đi.”
Điều khiến bạn đọc bất ngờ, người chiến sĩ này cũng chính là người bị họa sĩ từ chối khi anh chiến sĩ có nhờ họa sĩ vẽ cho một bức họa. Người họa sĩ lúc này đang cảm thấy mình có lỗi và gửi lời xin lỗi đến chiến sĩ: “Tôi xin lỗi đồng chí về cái việc hôm qua, đến mai thế nào tôi cũng sẽ vẽ cho đồng chí. Một bức thật đẹp!”.
Vậy là trong đêm đó, người họa sĩ tài năng đã hoàn thành bức vẽ người chiến sĩ thồ trong nửa tiếng đồng hồ. Người họa sĩ ấy tự ý thức được rằng bản thân không thể chậm chạp vì cả hai đều phải cùng đoàn lên đường để đi chặng đường tiếp theo: “Cả hai chúng tôi đều vội, đến nỗi mà anh cũng chẳng kịp viết thư mà chỉ kịp ghi cho tôi cái địa chỉ. Rồi hai chúng tôi chia tay nhau”.
Nhờ sự tài năng ấy, sau này bực họa truyền thần kia nổi tiếng không chỉ ở trong nước mà còn ra đến nước ngoài. Có lẽ là vì tấm lòng của người họa sĩ đặt trong bức tranh ấy rất nhiều thế nên người xem có thể cảm nhận được về ý nghĩa đặc biệt của bức tranh ấy.
Khi ấy trong lòng người họa sĩ ngập tràn sự nhiệt huyết, anh nghĩ rằng khi mình trở về sẽ mang bức tranh trao đến tận tay cho người chiến sĩ như lời đã hứa. Thế nhưng sau khi về anh đã bị công việc, cuộc sống “làm phiền” nhiều đến mức anh bị cuống vào vòng xoáy ấy lúc này không hay. Và rồi, chính người họa sĩ đã không giữ đúng lời hứa của mình là sẽ mang tranh đến cho người chiến sĩ ấy.
Sau đó, cuộc gặp gỡ tình cờ của người họa sĩ và anh chiến sĩ tại tiệm cắt tóc. Cuộc gặp gỡ này cũng chính là mở đầu cho hành trình dằn vặt lương tâm của người họa sĩ kia. Người họa sĩ nhận ra vì chính sự vô tâm của mình đã khiến cho người chiến sĩ kia phải chịu đựng nỗi đau đó là người mẹ vì thương nhớ con đã mù hai đôi mắt.
Lúc đầu người họa sĩ vẫn nghĩ rằng do mình có công việc bận nên mình bị lãng quên, anh suy nghĩ đủ mọi những lý do tuy nhiên trong lòng anh vẫn rất dằn vặt: “Tại sao ngày ấy tôi đã không đưa tấm ảnh đến cho gia đình anh? Tại sao tôi không giữ lời hứa? Mà tôi vẫn còn nhớ, tôi cũng đã hứa với anh và cả với tôi nữa, đinh ninh và hùng hồn lắm, và cũng thực tâm lắm chứ?”
Sau rất nhiều lần đấu tranh tâm lý, cuối cùng anh họa sĩ cũng chịu nói lời xin lỗi với người chiến sĩ tốt bụng đó: “Tôi xin nhận đã gây thêm đau khổ cho bà mẹ anh. Tôi đã lừa dối anh. Tôi thu thêm được nhiều tiền của và cả tiếng tăm trên sự đau khổ của anh”. Sự thừa nhận lỗi lầm ấy không chỉ khiến cho bản thân của người họa sĩ thấy nhẹ nhõm mà người chiến sĩ kia cũng được an ủi đôi phần.
Nhân vật người chiến sĩ khiến bạn đọc không khỏi bất ngờ trước thái độ của mình, ban đầu khi mà bị từ chối vẽ tranh người chiến sĩ vẫn bình thản, sau khi biết được người họa sĩ không mang tranh đến nhà mình như lời đã hứa anh không một lời trách móc người họa sĩ kia, anh vẫn cắt tóc và nói chuyện với người họa sĩ một cách bình tĩnh nhất. Có thể nói tấm lòng bao dung của người chiến sĩ ấy đã giúp người họa sĩ tự biết sai lầm của mình để sửa chữa.
Trong cuộc sống chúng ta sẽ không tránh khỏi những lần sai lầm, thế nhưng sai rồi phải biết sửa, sai phải biết cúi đầu nhận lỗi, đó mới được gọi là dũng cảm. Hy vọng tác phẩm “Bức tranh” sẽ giúp cho bạn nhận ra điều đó, học cách bao dung, học cách nhận lỗi khi mắc sai lầm. Con người chẳng có ai là hoàn hảo cả, chúng ta học hỏi từ chính những sai lầm của bản thân mình. Và đôi khi bài học cuộc sống đến từ những điều chúng ta không bao giờ có thể ngờ đến. Học hỏi, hoàn thiện bản thân mỗi ngày là điều chúng ta phải làm.
3. Phân tích truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu súc tích:
Truyện ngắn Bức tranh được rút trong tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), đây là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn trong thời kì này. Qua lời “tự thú” của một người họa sĩ về bản thân mình, nhà văn đặt ra vấn đề là “hãy biết vượt lên trên cái thấp hèn và ích kỉ, con người sẽ tìm được vẻ đẹp của cái thiện”.
Đâu phải khi khói lửa chiến tranh đã nguội tắt thì mọi thứ đều yên bề. Chiến tranh với “nỗi buồn” của nó vẫn hiện diện ở ngay trong cuộc sống thời bình. Cứ ngỡ như cuộc sống bận bịu hôm nay sẽ giúp ta nguôi quên đi quá khứ, nhưng rồi sẽ có lúc, thật bất ngờ, ta lại chạm phải nó – cái quá khứ mà không phải lúc nào cũng đẹp như là ta mong muốn. Người họa sĩ trong truyện cũng lâm vào tình trạng bất ngờ ấy: Do ông đến hiệu cắt tóc, ông “vô tình” gặp lại người lính năm xưa đã từng thồ tranh giúp cho ông ở chiến trường. Sự tình cờ này khiến họa sĩ rơi vào trong tình thế khó xử. Trước mắt ông, có thể có hai khả năng xẩy ra đó là người lính sẽ lên án ông hoặc sẽ bỏ qua, tha thứ cho ông. Biết làm sao hơn được, lỗi là tự ở chính ông. Mà cũng nhờ một phần vào cái “lỗi ấy” thế nên ông càng thêm nổi tiếng. Như vậy, cuộc gặp gỡ vô tình này hoá ra lại là điểm bắt đầu cho một cuộc tự vấn nghiêm khắc ở người họa sĩ. Từ một tình huống có tính bề ngoài, tác giả đã khéo léo chuyển thành một tình huống bên trong nhằm miêu tả một cách “tận đáy” của cái nội tâm day dứt trăn trở kia.
Bức tranh thứ nhất là kết quả của sự hối lỗi vì trước đó, họa sĩ “lạnh lùng” từ chối đề nghị “tha thiết” của người lính. Theo đúng như lời của họa sĩ thì đây là một bức tranh ngoài ý định nghệ thuật. Song chính cái giây phút “cầu ơ” ấy lại là một giây phút tạo nên một bức tranh nổi tiếng. Thậm chí, nó là cối “đinh” ở trong sự nghiệp của người nghệ sĩ, nó tồn tại một cách bền vững trong khi các bức tranh từng được ông dồn biết bao tâm huyết lại nhanh chóng bị lãng quên. Bức tranh thứ hai lại là một bức chân dung tự họa. Nhưng khác với bức tranh trước đây được vẽ khá vội vàng trong khoảng nửa tiếng đồng hồ, bức tranh này được họa sĩ vẽ ở trong khoảng thời gian “không biết bao tháng nay”. Mới hay, để tự họa chân dung mình, tự nhìn thẳng, nhìn đúng vào trong cái phần khuất tối, hèn kém của mình đâu phải là chuyện một sớm một chiều.
Trong giờ phút tỉnh táo, họa sĩ biết mình là kẻ giả dối, ông tự trách: “Tại sao tôi lại không giữ lời hứa”? Chính ông là người đã nhẫn tâm “lờ quên đi cái người mẹ đang ôm ấp nỗi đau khổ” vì nhầm tưởng người con trai của mình đã hi sinh để gởi bức tranh đi dự triển lãm. Vậy ra, nguyên nhân của sự giả dối kia chính là lòng ích kỉ. Giờ đây, đối mặt với người lính năm xưa, ông lại phải đứng trước sự lựa chọn đó là nhận lỗi hay lảng tránh? Trước câu hỏi này, có một con người khác xuất hiện ở trong ông, tìm cách biện bạch cho ông. Rằng, là một nghệ sĩ, ông có quyền quên đi cái riêng để phục vụ cho cái chung. Thì đây, bằng chứng là bức chân dung người lính đã trở thành đại diện cho số đông đấy thôi! Thậm chí là, con người thứ hai này còn xui ông chuộc lại lỗi lầm bằng tiền bạc. Cứ thế, bằng đủ những lí lẽ, các mánh lới, hắn rủ rê con người hướng thiện quy hàng bóng tối. Nhưng, bằng một thái độ nghiêm khắc thì người họa sĩ đã vượt qua sự rủ rê, biện bạch, giả dối kia.
Cuộc đấu tranh căng thẳng trong nội tâm họa sĩ còn được thể hiện qua các cuộc đối thoại giả tưởng giữa ông và người lính. Nếu như trong lần đối thoại đầu tiên, con người hèn nhát, ích kỉ vẫn đang còn ngoan cố thì đến lần gặp thứ hai, phần thắng đã nghiêng về cái thiện. Nhìn rõ “khuôn mật bên trong” của mình, người họa sĩ đã dũng cảm thừa nhận tất cả mọi lỗi lầm của mình cho dù ông cũng đã từng trải.
Rõ ràng, mặc dù là một truyện ngắn có tính luận đề, nhưng sự phân tích tâm lí sắc sảo của tác giả đã làm cho “Bức tranh” không rơi vào tình trạng khô cứng. Nhân vật được đặt trong tương quan với nhiều những quan hệ khác nhau, trong đó có quan hệ với bản thân mình. Lối kết cấu đầu cuối tương ứng có thể coi là một yếu tố tạo nên được sức hấp dẫn của tác phẩm. Nếu như ở phần đầu, họa sĩ thông báo về một bức tự họa đã hoàn thành thì ngay phần sau được coi là một ghi chú về tác phẩm. Điều đáng nói hơn cả ở trong lời ghi chú là “luồng ánh sáng hàng nghìn nến từ phía trước và phía trên đầu chiếu thẳng xuống” được nhắc lại thêm một lần nữa. Đây có thể coi là ánh sáng của sự khai sáng, ánh sáng của sự thật, của cái thiện. Và thêm nữa, “một đôi mắt mở to, khắc khoải, bồn chồn đầy nghiêm khắc đang nhìn vào nội tâm” nói cho cùng cũng là một thứ ánh sáng. Đó là ánh sáng của sự tự tri. Ánh sáng ấy được bao bọc ở trong một thứ ánh sáng khác, ánh sáng của sự độ lượng tỏa ra từ tâm hồn người lính vô danh.
Tôi muốn tự nguyện đến nạp mình cho lương tâm, ý hướng được vươn đến cái đẹp, cái cao cả này đã cấp thêm cho người họa sĩ sự dũng cảm để vượt sự can ngăn của cái xấu, của thói ích kỉ, của sự giả dối. Có thể nói rằng đây cũng là đề nghị của chính Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến độc giả qua truyện ngắn đặc sắc này.
THAM KHẢO THÊM: