Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc được thể hiện một cách sâu sắc qua hình ảnh thiên nhiên, con người, cuộc sống kháng chiến và ngôn ngữ nghệ thuật. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm văn học mà còn là một tài liệu lịch sử quý giá. Dưới đây là một số bài văn mẫu phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc.
Mục lục bài viết
1. Lập dàn ý phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc :
Mở bài:
-
Giới thiệu một vài nét về tác giả Tố Hữu và tác phẩm
Việt Bắc -
Trong thơ Tố Hữu nhận định đậm tính dân tộc.
Thân bài:
-
Giải thích tính dân tộc là gì?
-
Nêu những biểu hiện mang tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc:
-
Nhận xét, đánh giá:
Kết bài:
Nêu cảm nhận của bản thân về tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc”.
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT:
Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu không chỉ là một tác phẩm văn học mà còn là một bức tranh sinh động về cuộc sống kháng chiến, về tình yêu quê hương đất nước. Tính dân tộc trong bài thơ được thể hiện rõ nét qua nhiều phương diện:
Hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc:
- Thiên nhiên Việt Bắc: Tố Hữu đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên Việt Bắc với những nét đặc trưng riêng: núi rừng hùng vĩ, sông suối hiền hòa, hoa lá bốn mùa… Những hình ảnh này không chỉ là khung cảnh mà còn là biểu tượng cho sự giàu đẹp, kiên cường của đất nước.
- Con người Việt Bắc: Hình ảnh người dân Việt Bắc hiện lên với những phẩm chất cao quý: cần cù, chất phác, giàu tình cảm, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Cuộc sống kháng chiến gian khổ nhưng hào hùng:
- Khó khăn, gian khổ: Cuộc sống kháng chiến đầy gian khổ, thiếu thốn.
- Tinh thần lạc quan, yêu đời: Dù trong hoàn cảnh khó khăn, người dân Việt Bắc vẫn giữ vững tinh thần lạc quan, yêu đời.
- Ý chí quyết tâm: Niềm tin vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến luôn cháy bỏng trong lòng mỗi người.
Tình cảm sâu nặng giữa con người và quê hương:
- Tình yêu quê hương: Nỗi nhớ da diết của người đi đối với mảnh đất Việt Bắc.
- Tình đồng chí, tình làng nghĩa xóm: Sự gắn bó, thủy chung giữa những người chiến sĩ, giữa những người dân.
Ngôn ngữ và hình ảnh thơ:
- Ngôn ngữ dân tộc: Tố Hữu đã sử dụng nhiều câu ca dao, tục ngữ, những từ ngữ quen thuộc trong đời sống của người dân.
- Hình ảnh thơ: Những hình ảnh thơ giản dị, gần gũi, dễ hiểu, tạo nên sự gần gũi, thân thuộc với người đọc.
Âm hưởng dân ca:
- Ngữ điệu dân ca: Bài thơ mang đậm âm hưởng dân ca, tạo nên một không khí ấm áp, thân quen.
- Ca dao, tục ngữ: Việc sử dụng ca dao, tục ngữ làm tăng thêm tính dân tộc của bài thơ.
Ý nghĩa:
- Ca ngợi vẻ đẹp của quê hương, đất nước: Bài thơ đã khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc trong mỗi người đọc.
- Khẳng định ý chí, tinh thần của dân tộc Việt Nam: Qua những hình ảnh, câu thơ, ta thấy được ý chí quyết tâm, tinh thần bất khuất của dân tộc ta.
- Gắn kết cộng đồng: Bài thơ đã tạo ra một sợi dây liên kết giữa những người con đất Việt, dù ở bất kỳ đâu.
2. Phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc hay nhất:
Tố Hữu được coi là ngọn cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Năm tập thơ của nó phản ánh các giai đoạn trong lịch sử của đất nước. “Từ ấy” là tập thơ đầu tay ghi lại quá trình giác ngộ và trưởng thành của một đảng viên trẻ tuổi Đảng Cộng sản. Tiếp theo, tập “Việt Bắc’’ trong Kháng chiến chống Pháp. Tập thơ là bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến toàn dân của đất nước. Tập “Gió Lộng’’ đánh dấu bước phát triển của thơ Tố Hữu viết về hai thách thức của dân tộc: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chống Mỹ ở miền Nam. Và giọng điệu hùng tráng được nhà thơ thể hiện rõ nét hơn trong hai tập “Ra trận’’, “Máu và hoa’’. Cuối cùng, tuyển tập thơ “Một tiếng đờn’’ là tập hợp những suy nghĩ được tác giả viết vào thời bình.
Về nội dung, bài thơ “Việt Bắc” đã nêu lên một vấn đề nóng bỏng về vận mệnh của dân tộc. Cho thấy một hình ảnh của người Việt Nam trong Kháng chiến. Đẹp nhất là hình ảnh Bác Hồ, Người là sự kết tụ tinh hoa của dân tộc:
“Nhớ ông cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường”
Nhà thơ Tố Hữu gọi Bác là “Ông cụ”. Chiếc “áo nâu” mà Bác Hồ mặc hàng ngày là hình ảnh gần gũi trong cuộc sống ở Việt Nam. Mọi người Việt Nam đều mang lòng kính trọng, ngưỡng mộ, biết ơn Bác Hồ và luôn nhìn Người với niềm tin mãnh liệt:
“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi”
Bác Hồ là trung tâm mọi tâm tư, tình cảm của nhân dân.
Khi viết bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu không chỉ thay mặt nhân dân bày tỏ lòng biết ơn đối với đảng và người chú kính yêu của mình, mà còn bày tỏ tình cảm sâu sắc đối với người dân Việt Bắc. Trong tâm trí của những ai đến đó còn đọng lại hình ảnh chiếc áo chàm giản dị mà nguyên sơ. Cùng nhau sát cánh trong 15 năm, Việt Bắc đã cùng các chiến sĩ cách mạng vượt qua muôn vàn khó khăn, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi:
“Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng lên cộng hòa”
Tố Hữu ca ngợi tình cảm thủy chung son sắt của nhân dân Việt Bắc, còn các chiến sĩ cách mạng ca ngợi truyền thống của họ. Truyền thống đấu tranh và giữ nước của dân tộc. Trong bài thơ Việt Bắc, tác giả đã miêu tả tính chất cuộc kháng chiến chống Pháp của cả dân tộc. Với nhiều phe phái tham gia, tất cả mọi người, già trẻ lớn bé đều muốn đóng góp cho Kháng Chiến. Các đơn vị dân sự theo quân đội ra trận với nhiệm vụ cung cấp lương thực và đạn dược cho chiến trường. Tất cả phía trước:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
Tinh thần chiến đấu của cả dân tộc thật anh dũng và oanh liệt không một thế lực nào có thể ngăn cản được. Họ ra trận với lòng yêu nước, tin rằng ngày mai nhất định sẽ thắng. Tố Hữu quê ở xứ Huế, có những làn điệu dân ca ngọt ngào. Lời ru của mẹ tìm đường vào hồn thơ Tố Hữu, vào những trang thơ của ông. Thơ Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát với kết cấu đối lập như những bản tình ca của đôi trai gái yêu nhau. Thế là câu chuyện chính trị được tác giả biến tấu như một câu chuyện ngôn tình. Nó ngọt ngào, tình cảm chứ không khô khan, giúp nhà thơ diễn tả được tình cảm nồng nàn của người ra đi (Cách mạng) và người ở lại (Việt Bắc) trong buổi tiệc tiễn biệt đầy sợ hãi và nhớ nhung:
“Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
Khi đọc thơ của Tố Hữu, tôi bị ấn tượng bởi cách sử dụng đại từ “mình”, “ta” giống như trong ca dao cổ. Mười lăm năm nay, những người cách mạng và nhân dân Việt Bắc coi nhau như những người bạn tri kỷ. Như vậy, đại từ “mình”, “ta” được nhà thơ sử dụng rất linh hoạt, có khi phân biệt rõ ràng, nhưng cũng có khi “mình”, “ta” là một. Điều này thể hiện mối liên hệ sâu sắc giữa quê hương Bác và cán bộ kháng chiến. Tính dân tộc của thơ Tố Hữu còn được thể hiện qua giọng điệu của bài thơ. Bài thơ này đầy nhạc tính. Với hệ thống từ láy giàu từ tượng thanh như “rầm rập”, những điệp từ “nhớ”, “vui”… nghệ thuật liệt kê, đảo ngữ tạo nên tính đối xứng của bài thơ, nghệ thuật liệt kê, đảo ngữ tạo nên tính đối xứng của bài thơ.
Nhà thơ Chế Lan Viên có nhận xét về bài thơ Tố Hữu Thật vậy, khi đọc thơ Việt Bắc , người ta bắt gặp những hình ảnh rất bình dị như “củ khoai”, “củ sắn”, “bờ lau” nhưng qua cách diễn đạt tài tình của nhà thơ, những hình ảnh biểu trưng cho cuộc sống khó khăn ấy đã trở thành một biểu tượng. Trong những ngày đầu của cuộc chiến tranh gian khổ với Pháp, đặc biệt là Việt Bắc và cả nước.
Tóm lại, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc với tấm lòng thành kính với đảng, với cách mạng, với nhân dân. Đoạn thơ này khiến ta cảm nhận được nhiều phẩm chất quý báu của người dân Việt Nam như lòng yêu nước, tương thân tương ái, đoàn kết, lạc quan và thủy chung. Xem bản sắc văn hóa của bạn. Đọc bài thơ Việt Bắc càng thấy yêu quê hương hơn. Theo bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, rất xứng đáng là một kiệt tác của nền văn học cách mạng Việt Nam.
3. Phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc ý nghĩa nhất:
“Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ của dân tộc” Nguyễn Đình Thi đã nhận xét như thế về thơ Tố Hữu. Chúng ta thấy nhận xét của ông là đúng, có phần phiến diện. của cải dân tộc trong ‘tinh thần thi ca’ của một thời đã qua. Việt Bắc Là một trong nhiều bài thơ có tính chất “cổ điển” như vậy. Đọc Việt Bắc, ta mới cảm nhận được sức mạnh của bản sắc dân tộc này. Có lẽ bài thơ hay nhất của Tố Hữu là bài Việt Bắc mượt mà, tinh tế và mẫu mực ở thể lục bát:
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương.
Những câu thơ lục bát này có thể ghép với những câu ca dao, tuồng hay nhất. Tiếng Việt trong những câu này thật giản dị mà đằm thắm, trong sáng mà sâu sắc. Ca từ đan xen chặt chẽ với nhịp điệu kéo dài nhẹ nhàng nghe như nét nhạc hay giai điệu lời nói.
Nhưng khi nhắc đến Việt Bắc, có lẽ điều khiến người đọc ngạc nhiên nhất chính là cấu trúc độc đáo của nó. Tố Hữu tái hiện một hình ảnh hoành tráng kéo dài suốt 15 năm (nhớ trận đánh Nhật thời Việt Minh), bao trùm một không gian rộng lớn, bao trùm cả Việt Bắc (từ “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” đến “Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà”). Các bài thơ có xu hướng trở thành trường ca lịch sử (kiểu như “Ba mươi năm có Đảng” sau này!). Nhưng sở dĩ nó không phải là một bài ca đích thực là do nhà thơ đã tìm ra cấu trúc của các bài tình ca truyền thống, cả câu thơ dài như một đôi trai gái hò đối đáp nhau, như một bài hát. Toàn bộ bài thơ bao gồm chủ yếu là lời của hai nhân vật. Đó là cô gái Việt Bắc nằm lại trong rừng chiến khu, và người cán bộ cách mạng trở về, người về xuôi là anh cán bộ cách mạng. Tựa như “liền chị liền anh” trong hát Quan họ. Cuộc chia tay trọng đại của các cán bộ đảng và chính phủ chống Việt Bắc được ghi lại trong cuộc chia tay của các chàng trai và cô gái. Nói cách khác, tác giả đã chọn tình yêu đôi lứa làm viễn cảnh để bao quát toàn bộ Việt Bắc, nói rằng “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, tác giả đã chọn tình yêu đôi lứa để trở thành một câu chuyện tình yêu.
Những sự kiện chính trị đầy cảm xúc được đưa vào thơ là nét đặc trưng của thơ trữ tình, thơ chính trị của Tố Hữu. Việc “dời đô” (Việt Bắc là thủ đô kháng chiến Tố Hữu gọi là “Thủ đô gió ngàn”) đã trở thành câu chuyện tình chung thủy của người cách mạng với núi rừng chiến khu với đồng bào,… Đôi trái gái xưng hô theo cách nói rất dân gian: “Ta mình”. Nỗi băn khoăn lớn nhất của ta và mình trong cuộc chia tay giã bạn là ân tình chung thuỷ:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng?
Phố cao còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng
“Mình về mình có nhớ ta” là một câu chuyện chung thủy! Nhưng lòng trung thành của tình yêu, “mình đi mình có nhớ mình” đạt đến một mức độ rất sâu sắc. Rời xa Việt Bắc là rời xa chốn gian khó, có lẽ nào em quên mình. Những câu hỏi sâu sắc, gần gũi ấy đã giúp Tố Hữu phát triển văn học dân gian, truyền thống hóa những vấn đề của cách mạng, những vấn đề của thời đại ngày nay. Người con trai cũng đã đáp lời, cũng ghi lòng tạc dạ với một tinh thần như thế:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Nhớ cao chàng khuất non xanh
Phố đông càng giục chân nhanh bước đường
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Cách kết cấu đối đáp hài hòa với thể thơ lục bát dân gian như vậy đã tạo cho “Việt Bắc” của Tố Hữu một dáng dấp của một bản tình ca dân ca. Nó đưa thơ đến gần tâm hồn quần chúng và dễ hòa nhập vào mạch văn hóa dân gian, khiến nó trở thành một trong những bài duy nhất có khả năng trình bày thơ theo phong cách diễn xướng dân gian rất phù hợp.
Đọc thêm về nghệ thuật cổ điển của ông nên phát biểu. Đây là một nét truyền thống nữa của thơ Tố Hữu. Trong bài “Kính gửi cụ Nguyễn Du”, chúng ta thấy không khí lục bát thật trang trọng. Thi sĩ đã dùng những thi liệu của “truyện Kiều” để tâm tình với tác giả “Truyện Kiều”. Cũng sử dụng hình thức gợi ý, một tập hợp các gợi ý, để tạo cho các bài thơ của mình một phong cách cổ điển. Không phải ở đây. Chúng ta đã thấy cái kết trữ tình của bài thơ. Giọng điệu tứ tuyệt của thơ nghiêng về điển tích. Các bộ lục giác ở những nơi này thường ít rời và chặt chẽ hơn, nhiều chữ “đúc” nhiều, chữ “nước” ít. Đây là những bài thơ lục bát. Đặc biệt, trong đoạn văn “Hoa cùng người”, ta thấy nhà thơ đã vẽ nên một loạt bức tranh trữ tình. Đây là một nghệ thuật cổ điển rất phổ biến. Phản ánh hoa và người, tôn trọng lẫn nhau, bức tranh này dường như tái hiện đầy đủ nhịp điệu tuần hoàn của thiên nhiên và con người Việt Nam:
Ta về mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trổng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Thành công của thơ Việt Bắc còn ở nhiều khía cạnh khác như ngôn ngữ, nội dung và chất trữ tình. Nhưng tôi có thể khẳng định rằng, truyền thống dân tộc giàu sức sống đã tạo nên sức sống và sức mạnh lôi cuốn người ta đến với thơ ca. Cùng với những bài thơ Tố Hữu khác, Việt Bắc cũng khẳng định phong cách độc đáo, đi từ hiện đại đến cổ điển, trở về dân tộc và truyền thống, qua hành trình sáng tác của người nghệ sĩ.
THAM KHẢO THÊM: