Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ kèm dàn ý

Chinh phụ ngâm là một bài thơ quan trọng, vì vậy bài viết dưới đây cung cấp những bài phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất

1. Dàn ý phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ:

Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm

Thân bài: 

*Hành động lặp đi lặp lại một cách vô vị nhàm chán

-“Lặng bước từng bước”: Bước khẽ bên hiên vắng.

- “Rủ thác đòi phen”: Vào phòng cuốn màn, buông màn

→ Hành động lặp đi lặp lại trong vô thức, thể hiện sự bất lực, bấp bênh của kẻ chinh phục

Từ “vắng, thưa”: Không chỉ gợi sự im lặng của không gian mà còn cho thấy sự trống vắng trong lòng người chinh phụ

*Thao thức trông ngóng tin chồng: 

- Ban ngày:

Kẻ chinh phụ đặt hy vọng vào tiếng chim thước - loài chim báo tin vui.
Nhưng sự thật “thước chẳng mách tin”: Tin tức chồng vẫn bặt vô âm tín.
- Đêm:

Người chinh phụ thức cùng ngọn đèn mong cho ngọn đèn biết tin chồng mà sẻ chia tâm tình.
Thực tại: “Chiếc đèn không biết” “lòng em buồn” Câu thơ có hình thức khẳng định và phủ định đặc biệt, ngọn đèn có biết hay không bởi nó chỉ là vật vô tri vô giác không thể chia sẻ cho nhau.
So với câu ca dao “khăn quàng thương nhớ ai” thì bài ca dao còn có hình ảnh chiếc đèn ông sao. Nếu “ngọn đèn” trong bài hát là tâm sự của người con gái thì ở đây “ngọn đèn” đung đưa lại khoét sâu thêm nỗi đau trong lòng người.
- Hình ảnh so sánh “đèn hoa” và “bóng người”.

“Hoa đèn” làm bấc, thực chất là than củi. Như đèn cháy hết chỉ có hoa tàn, người đàn bà kiên nhẫn đợi chồng nhưng cuối cùng lại thấy cô đơn trống vắng.
Hãy nghĩ đến nỗi cô đơn của Thúy Kiều sau khi từ biệt Thúc Sinh và trở về với ngôi sao năm cánh:
“Người về chiếc bóng năm canh/Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”

*Cảm nhận của người chinh phụ về không gian và thời gian : 

“Khắc giờ đằng đẵng”, “Mối sầu giằng giặc”: Thể hiện sự lan tỏa của nỗi nhớ nhung vô tận.
Biện pháp so sánh kết hợp với từ láy gợi hình giàu giá trị gợi “dài đằng đẵng” cho thấy sự cảm nhận khác thường về thời gian, từng phút từng giờ trôi qua nặng trĩu như năm dài đằng đẵng, thời gian càng dài, nỗi buồn càng nặng.
→ Đoạn thơ diễn tả nỗi cô đơn tột cùng trong lòng người chinh phụ

*Nỗi nhớ nhung của người chinh phụ: 

- Thủ pháp điệp ngữ liên hoàn “Non yên - non yên, trời - trời”: Nhấn mạnh khoảng cách xa xôi, những trở ngại không gì lấp đầy được, đồng thời là nỗi nhớ da diết, đau đớn tột cùng trong lòng người chinh phụ.

-Từ “sâu thẳm, đau đáu”: Mức độ cực trái của nỗi nhớ, mức độ sâu xa là nỗi nhớ da diết, dai dẳng, triền miên, tồi tệ nhất là nỗi nhớ gắn liền với nỗi đau, nỗi sầu.

Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. 

2. Những bài phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất: 

2.1. Bài mẫu 1 - Bài phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất: 

Trong văn học trung đại, để lên án sự suy tàn của xã hội phong kiến cũng như ca ngợi khát vọng hạnh phúc của con người, nhiều nhà thơ đã bày tỏ nỗi niềm, nỗi bất bình của mình bằng những vần thơ, khúc ngâm. Vào thời Đường ở Trung Quốc, Vương Xương Linh căm ghét chiến tranh phi nghĩa nên đã viết Khuê oán. Ở nước ta thời Lê sơ, Đặng Trần Côn đã cảm thông sâu sắc với số phận của những người phụ nữ có chồng đi lính và đã cho ra đời kiệt tác Chinh phụ ngâm. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người anh hùng tùy tác phẩm trên đã lay động trái tim người đọc khi tái hiện lại hoàn cảnh lẻ loi, nỗi nhớ da diết đau đớn của người phụ nữ mơ về hạnh phúc đoàn tụ.

Thái hậu sinh vào khoảng thế kỷ 18, đầu thời Lê Hiển Tông, khởi nghĩa nông dân liên tiếp diễn ra, triều đình cử binh dẹp loạn. Từ đó, bao gia đình phải chịu cảnh ly tán, có người ra đi, không hẹn ngày gặp lại. Số phận và bi kịch của những con người bé nhỏ trong xã hội phong kiến đứng bên bờ vực thẳm ấy đã lay động trái tim Đặng Trần Côn.

Bài ngâm bằng chữ Hán của ông gồm 476 câu thơ, làm theo thể thất ngôn bát cú. Khi Đoàn Thị Điểm dịch ra chữ Nôm, bà đã chuyển tác phẩm sang thể thơ Song thất lục bát, sử dụng giọng điệu da diết, thiết tha của thể thơ dân tộc bản địa, góp phần thể hiện hoàn cảnh, tâm trạng của người phụ nữ có chồng đi lính. Sở dĩ Hồng Hà trung thành với nguyên tác của chủ nhân và có nhiều sáng tạo trong quá trình dịch thuật là vì dịch giả cũng rơi vào hoàn cảnh giống như người viết lời: lấy chồng chưa được bao lâu thì chồng là Nguyễn Kiều phải đi. Cũng vì thế mà cô thấu hiểu cuộc sống cô đơn, buồn tẻ với những lo toan, nhớ nhung của người chinh phụ.

Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ viết về hoàn cảnh và tâm trạng của người chinh phụ phải sống cô đơn buồn bã lâu ngày, giặc kéo đi chinh chiến, không có tin tức, ngày về không biết.

Cảnh lẻ loi, nỗi cô đơn bủa vây kẻ chinh phụ, nỗi nhớ nhung chồng xa xứ, niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi… là những ý chính khi phân tích Chinh phụ ngâm.

Tiễn chồng ra trận, người vợ lẽ bị bỏ lại một mình trong căn phòng trống vắng lạnh lẽo, nỗi đau lòng của nàng được bộc lộ qua hành động và hoàn cảnh xung quanh:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”

Người chinh phụ rải bước trong hiên vắng, lặng lẽ đếm bước mình vừa đi, như đếm ngày chồng ra đi. Bước chân lặng lẽ của nàng trĩu nặng nỗi sầu, chất chứa hoài niệm, như bước cung nữ trong Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều: “ Ngán trăm chiều bước ngẩn ngơ”.

Ở nàng bước đi không còn vẻ thong dong, thoải mái mà thay vào đó là sự buồn tẻ, tẻ nhạt - một tâm trạng khác hẳn với Thúy Kiều khi bước đi tìm người yêu: “Xăm xăm xăm mình trên lối vườn khuya một mình”. Nàng Kiều đi tìm tình yêu trong niềm hân hoan hân hoan, còn kẻ chinh phụ cứ gặm nhấm nỗi cô đơn, lo lắng cho sự an nguy của người mình yêu nơi miền biên ải xa xôi.

Nàng dừng bước ngoài hiên, lại ngồi buồn, cuốn rèm, buông rèm. Những hành động vô nghĩa đó cứ lặp đi lặp lại trong vô thức, cô không còn quan tâm mình đang làm gì nữa vì tâm trí cô giờ đang dồn hết cho người chồng đang đi nghĩa vụ quân sự. Tính thẩm mỹ và mỹ từ sử dụng các từ “vắng”, "từng” vẽ nên một không gian trống trải, thưa thớt yêu thương, càng làm nổi bật nỗi cô đơn, buồn bã, khắc khoải của nhân vật trữ tình.

Người chinh phụ không chỉ nhớ nhung, lo lắng cho chồng mà còn mong ngóng tin tức từ người chồng. Cô chờ đợi tin vui của chim bồ câu để vơi bớt lo lắng, nhưng chim bồ câu không đến. Cô về bóng đèn, hỏi đèn, hỏi lòng. Phân tích sự đắm chìm của Cha sẽ thấy cô nhận ra rằng càng hy vọng và chờ đợi bao nhiêu thì cô càng thất vọng và tuyệt vọng bấy nhiêu.

Nỗi khao khát được đoàn tụ, khao khát hơi ấm gia đình càng khiến cô đau đớn và thất vọng hơn. Vướng vào lối tu từ và lặp lại cụm từ “bức màn” đã đẩy nàng vào bế tắc, bế tắc của xã hội phong kiến suy tàn, của triều đình loạn lạc khiến niềm tin của con người về tình yêu và hạnh phúc không còn giá trị. Than ôi, kẻ chinh phục mới đáng thương làm sao!

Phân tích Kẻ chinh phục ta sẽ thấy kẻ chinh phục tràn đầy hi vọng về ban ngày, còn về đêm, khi bóng tối cô độc ập xuống bao trùm lấy nàng, nàng chỉ còn biết làm bạn với  cái bóng:

“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Rầu rĩ nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

Câu bắc cầu “đèn có biết”, “đèn biết chăng” càng làm cho nỗi đau, sự xót xa của người chinh phụ thêm da diết, day dứt. Trong tâm trạng đó, cô đối diện với ngọn đèn dầu, mong muốn được thấu hiểu, chia sẻ tâm tư.

Khi phân tích Chinh phụ ngâm, ta thấy hình ảnh ngọn đèn dầu còn xuất hiện trong các tác phẩm văn học dân gian và trung đại khác. Ca dao có câu “đèn thương nhớ ai/ đèn chẳng tắt” thể hiện niềm mong mỏi tha thiết của người con gái đối với người mình yêu. Trong Chuyện người con gái Nam Xương, Vũ Nương cũng lấy ngọn đèn dầu để vơi đi nỗi cô đơn khi Trương Sinh đi lính.

Nhưng cho đến Chinh phụ ngâm, ý nghĩa tượng trưng của ngọn đèn dầu không chỉ dừng lại ở đó. Đặng Trần Côn mượn ngọn đèn tàn để ẩn dụ cho thời gian trôi nhanh, sự héo úa, lụi tàn của kiếp người. Nhà thơ như muốn nói: cuộc đời chỉ là một kiếp người mong manh và dở dang. Bởi vậy, vật vô tri là ngọn đèn đỏ rực, cháy đến hết bấc chẳng những không thể đồng cảm với nỗi đau buồn, cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ mà còn khiến nàng thêm tuyệt vọng. tối hậu.

Tâm trạng của nhân vật trữ tình được miêu tả bằng những tính từ chỉ cảm xúc: “bi thương”, “sầu muộn”, “ngậm ngùi” “Bi kịch” được hiểu là một sự kiện bi đát, bi thảm. Từ “buộc” theo nghĩa Hán Việt còn tồn tại có nghĩa là cắt, mài. Những tâm tư u buồn của kẻ chinh phụ khao khát được bộc lộ, được thấu hiểu.

Nhưng trong hoàn cảnh cô đơn, cô biết trút bầu tâm sự cùng ai. Cô chỉ còn biết kìm nén những cảm xúc đó, cảm nhận nỗi đau như bị ai cắt vào tim. Qua việc cảm nhận cảm xúc của người chinh phụ khi đối diện với ngọn đèn, người đọc càng khâm phục tài năng nghệ thuật và thẩm mĩ trong việc miêu tả tâm trạng của tác giả!

Đèn vụt tắt, để lại kẻ chinh phụ một mình trong đêm dài hiu quạnh:

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.”

Một đêm năm canh, người chinh phụ vì đợi người chinh phạt nên thức suốt năm canh, nghe gà gáy mà sợ hãi buồn bã. Tiếng “eo óc” ấy thưa thớt, hãi hùng, thê lương, khó chịu, từng âm vang lên rõ mồn một, đối lập với sự tĩnh mịch, tĩnh mịch trong tâm trí nàng. Tiếng gà trống gáy trong đêm gợi ra một không gian bao la, hiu quạnh, khiến người đàn bà cô đơn, lẻ loi trở nên nhỏ bé, đáng thương. Thẩm mỹ và cái đẹp lấy sự ngang trái đẩy tâm trạng của kẻ chinh phụ lên một nấc thang mới, khiến nó đau đớn hơn, cô đơn hơn, dày vò nàng hơn.

Không chỉ tiếng gà trống gáy khiến nàng trằn trọc, bóng dáng “lông bông” cũng khiến kẻ chinh phụ phải suy nghĩ, trăn trở. Bao quanh kẻ chinh phục là những bóng ma mơ hồ di chuyển trong đêm, lúc ẩn lúc hiện, như không. Từ láy gợi hình ảnh “lông tơ” càng làm tăng vẻ mơ hồ, ảo ảnh của cảnh vật, tin chồng xa xứ, những cuộc sum họp, đoàn tụ gia đình trong giấc mơ ấy, nàng càng mong chờ, càng cảm thấy xa cách.

Phân tích đoạn ngâm của Chinh phụ ngâm, ta thấy hình ảnh hàng cây trong đoạn thơ trên gợi nhớ đến bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi: “Hoè lục đùn đùn tán rợp dương”. Cây hòe của Nguyễn Trãi đẹp, tràn đầy sức sống, gợi lên niềm vui của một buổi trưa hè, khác với vẻ buồn bã, u uất của cây hòe đặt trong đêm thanh tĩnh của trường ca của Đặng Trần Côn. Từ đó, ta thấy được nghệ thuật và tính thẩm mĩ trong cách dùng từ của tác giả, từ tính từ “lẳng lơ” đến động từ “mời mọc” đều mang một sắc thái buồn chán, ủ rũ.

Trong không gian tĩnh mịch, thời gian đã trôi qua màn đêm, người chinh phụ ôm nỗi nhớ nhung, thấm thía về bi kịch của đời mình:

“Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”

Vắng chồng, cuộc sống của người chinh phụ tẻ nhạt, tẻ nhạt và nặng trĩu với nỗi nhớ đong đầy từng phút giây, nỗi cô đơn bủa vây từng giờ. Những ngày này, thời gian trôi đi rất chậm, như muốn gặm nhấm chuỗi ngày đau khổ của cô. Một ngày không còn được đo bằng vài tấc, vài tích tắc, mà được tính bằng một năm dài đằng đẵng.

Từ láy kéo dài thời gian, kéo dài nỗi buồn tủi, cô đơn của người con gái có chồng ra trận. Trong những ngày khó khăn ấy, người chinh phụ nghĩ về cuộc hôn nhân gia đình dang dở, về cuộc đời không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn khiến chị càng thêm buồn. Đúng là “sầu đong càng lắc càng đầy”, nỗi buồn của kẻ chinh phục ngày càng triền miên, không có kết quả cuối cùng.

Phân tích Kẻ chinh phạt sẽ thấy tác giả đã so sánh suy nghĩ của nàng với hình ảnh ước lệ về “miền biển xa”, những lo lắng, buồn phiền của kẻ chinh phạt vượt ra ngoài giới hạn của không gian và thời gian.  So với bản chữ Hán “Sầu Tứ Hải/Khắc như Niên” của Đặng Trần Côn, ta thấy Đoàn Thị Điểm không những trung thành với nguyên tác mà còn có những sáng tạo riêng trong quá trình dịch thuật, giúp người đọc hiểu đơn giản và giản dị để đồng cảm với nhân vật trữ tình.

Kẻ chinh phụ, chán ghét thời gian trôi qua chậm chạp, cố gắng thoát khỏi những ngày dài cô đơn:

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”

Người chinh phục cũng nhắc lại lời thề năm nào. Hương trầm thoang thoảng đã vô tình đưa nàng về những tháng ngày hạnh phúc ngày xưa, thả hồn phiêu lãng tìm về những kỉ niệm đẹp đã quá xa. Nhưng càng tiếc nuối quá khứ tươi đẹp, nhân vật trữ tình càng thấm thía bi kịch hiện tại. Cô chỉ còn lại một mình, bơ vơ trước sự thật hiển nhiên: những đam mê xưa không thể lấy lại được.

Có thể thấy, việc thắp nén nhang để tìm sự bình yên trong tâm hồn càng khiến người phụ nữ nhỏ bé, đáng thương và bất lực càng thêm khốn khổ. Người chinh phục phải tìm một cách khác để giải tỏa tâm trí: cô ấy nhìn vào gương. 
Nhưng đêm nay, muốn thoát khỏi nỗi cô đơn bủa vây, cô buộc mình phải cầm chiếc gương. Cô giật mình và thương hại khuôn mặt võ vàng của người phụ nữ trong gương. Thương đôi mắt buồn đượm sầu, thương đôi môi không nở được nụ cười nhạt, thương thương tuổi xuân héo úa, gương mặt trong sáng bị tàn phá bởi nỗi đau âm ỉ. Nhưng giọt nước mắt nào có thể giúp cô cứu vãn được tình cảnh éo le này.

Góp phần chuyển tải những giá trị nội dung và nhân đạo của Chinh phụ ngâm là tài năng nghệ thuật thẩm mỹ và sự sáng tạo tài tình của tác giả, dịch giả. Xuyên suốt 18 câu thơ trong đoạn trích Nỗi cô đơn của người chinh phụ là những biện pháp nghệ thuật và thẩm mỹ như điệp ngữ, câu hỏi tu từ, ẩn dụ… làm say lòng người.

Khi phân tích người kể chuyện cũng như đoạn trích sẽ thấy tác giả đã có sự lựa chọn tinh tế từ ngữ giàu sức gợi, giàu sức gợi để miêu tả rõ ràng, cụ thể và chân thực, chạm đến từng cung bậc cảm xúc của nhân vật. Ngoài ra, thể thơ song thất lục bát với âm điệu du dương, tha thiết, giàu nhạc tính cũng góp phần quan trọng thể hiện nội tâm của người chinh phụ. Gần đó, Đoàn Thị Điểm rất trung thành với chủ nhân với nguyên tắc dịch thuật nên nhiều vần thơ giàu cảm xúc được truyền tải đến người đọc một cách trọn vẹn.

Cảnh lẻ loi của người chinh phụ, đoạn trích trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đã để lại nhiều dư âm sâu sắc trong lòng người đọc về nỗi buồn, đau đớn, nhớ nhung, lẻ loi, cô đơn của người phụ nữ có chồng đi lính. Qua đây, người đọc hiểu được tình cảm, suy nghĩ của tác giả về con người và xã hội đương thời. Ông lên án chế độ phong kiến thối nát với những cuộc đấu tranh bất công kéo dài và ca ngợi tình yêu cao thượng, khát vọng tình yêu đôi lứa.

2.2. Bài mẫu 2 -Bài phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất: 

Tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn được đặt trong bối cảnh của những cuộc chiến tranh phi nghĩa diễn ra vào cuối thế kỷ XVIII. Qua việc khắc họa hình ảnh nỗi nhớ nhung, đau khổ của người chinh phụ khi chồng đi chinh chiến ở miền biên ải xa xôi, tác giả đã thể hiện tiếng nói đồng cảm với những người phụ nữ trong xã hội cũ đương thời tố cáo chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm đã được nhiều dịch giả nổi tiếng dịch sang diễn Nôm, nhưng bản dịch hay nhất có lẽ là bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Đoạn trích Nỗi cô đơn của Chinh phụ ngâm được trích trong tác phẩm gồm 25 câu thơ từ câu 193 đến câu 216 diễn tả nỗi cô đơn của người vợ trong những năm tháng chinh chiến của chồng.

"Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết

Hạnh phúc là điều tuyệt vời mà ai cũng mong muốn có được. Đặc biệt đối với người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, hạnh phúc không hề dễ dàng nên họ lại càng trân trọng. Người chinh phụ trong công việc phải chấp nhận xa chồng, càng xa chồng càng cô đơn, buồn tẻ. Nỗi cô đơn bao trùm cả căn phòng, căn gác xép, bao trùm cả không gian và thời gian. Trước hiên nhà, những bước chân chậm chạp, nặng nề, buồn tẻ của kẻ chinh phụ thể hiện nỗi cô đơn, buồn chán hơn bao giờ hết. Hành động hạ màn, kéo màn lên như lặp đi lặp lại càng khoét sâu thêm nỗi cô quạnh trong hang. Càng cô đơn, càng nhớ, chờ tiếng chim hay từ phương xa mà chẳng có, đành ngậm ngùi cho ngọn đèn khuya.

"Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi"

Tìm ngọn đèn cho vơi nỗi sầu, nhưng ngọn đèn nào biết được. Cuối cùng, ánh sáng dù có chiếu rọi cũng không thể soi sáng tâm hồn kẻ chinh phục, cũng không thể soi thấu trái tim kẻ cô đơn. Ánh sáng ngọn đèn dẫu cũng là vật vô tri, vô giác, cũng không thể nghe kẻ chinh phụ giải thích, than thở. Ánh sáng nào có thể thay thế một người chồng nơi biên ải, có thể cùng nàng chia ngọt sẻ bùi. Có thể, ánh sáng càng ngày càng mờ, giống như lòng người chinh phạt càng ngày càng nặng trĩu, chất chứa một mảnh u sầu khó hiểu. Nàng buồn bã trong căn phòng với ngọn đèn dầu leo lét mà than khóc cho số phận của mình, xấu hổ cho thân phận lẻ loi, cô đơn vì cảnh chia ly. Nỗi xót xa trong lòng cô dâng lên trong từng lời than thở, vừa trách móc vừa thương thân phận mình:

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương"

Nỗi uất ức trong nàng như dâng lên, lòng người chinh phụ buồn bã, đau đớn, lòng nàng “buồn riêng”, một mình nàng gánh chịu. Đèn hoa đăng in hình bóng cô gái lẻ loi bên gian đình hằn sâu nỗi buồn trong đêm tối. Ánh đèn đang dần tắt, thời gian vẫn cứ trôi, một mình một bóng người, gặm nhấm nỗi cô đơn, nỗi buồn, sự chán chường vì lẻ loi.

“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”

Tiếng thở dài trong đêm tối vì hạnh phúc êm đềm bị chiến tranh vô nghĩa tước đoạt thật xót xa. Phải chăng lòng người đang buồn, nỗi sầu nhuốm mùi vị của thời gian và màu của không gian? Tiếng gà “eo ót” đếm thời gian trong đêm lạnh, “bóng chiều chập chờn” tứ phía, tất cả đượm buồn. Thiên nhiên có âm thanh, có màu sắc nhưng không có niềm vui dù nhỏ nhoi, như trái tim người thiếu nữ đang tuổi thanh xuân khao khát hạnh phúc lứa đôi phải chịu nỗi cô đơn khó hiểu. Ngồi buồn đếm thời gian trôi, từng giây phút như năm dài đằng đẵng. Hình ảnh so sánh kết hợp với từ gợi “thời gian dài như năm tháng” càng khắc sâu nỗi nhớ, sự chờ đợi.

"Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”

Trong nỗi buồn bã, u sầu và cô đơn tột cùng đó, kẻ chinh phụ cố vực dậy tinh thần bằng cách tìm đến những thú vui đời thường. Nhưng trớ trêu thay, mọi thứ dường như trở nên gượng ép, bất lực trước tâm trạng thích chinh phục. Nếu hướng gượng đốt thì hương sẽ thấm, nếu cố nhìn mặt cũng không ngăn được nước mắt nhớ nhung. Tay gõ phím đàn mà lòng quặn thắt, sợ dây đứt, phím chùng, lo điều sắp đến. Mọi thứ dường như đã trở nên vô nghĩa, kẻ chinh phục càng làm, nỗi đau càng xoáy vào tim, nỗi buồn càng không nguôi.

"Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời

Càng cô đơn, tuyệt vọng thì nỗi nhớ càng da diết, mãnh liệt. Người chinh phụ nhớ chồng da diết nhưng đành bất lực vì khoảng cách quá xa. “Non Yên” là hình ảnh ẩn dụ cho khoảng cách, đường đi của kẻ chinh phục và người bị chinh phục. Vì hoài niệm, không biết làm gì, nàng gửi nỗi nhớ theo gió đông về “Non Yên”. Hy vọng rằng những kỷ niệm đó có thể là niềm động viên, an ủi cũng như là niềm mong mỏi cho người chồng xa xứ được bình yên, chờ ngày trở về đoàn viên. Từ “sâu”, “khổ” kết hợp với cụm danh từ “đường lên trời” đã diễn tả nỗi nhớ da diết, mênh mông, rộng lớn trong lòng người chinh phụ. Qua đó thể hiện tình yêu tha thiết, thuỷ chung của người con gái khi yêu.

Ở những dòng cuối của bài thơ, thể thơ ngụ ngôn tả cảnh một lần nữa được tác giả sử dụng một cách tinh tế. Khung cảnh đượm buồn với sương đọng trên cành, tiếng côn trùng kêu, mưa phùn mênh mang như tâm hồn người thiếu nữ lúc này: buồn bã, chua xót, cô đơn trong cuộc đời.

Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã lay động biết bao trái tim người đọc với những cảm xúc xúc động nhất trong cuộc sống đời thường. Đó là sự đồng cảm với tâm trạng của kẻ chinh phụ, sự trân trọng vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ khi yêu và sự căm phẫn trước cuộc chiến tranh tàn khốc đã đẩy bao con người đau khổ ra đi như kẻ chinh phu.

3. Bài phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ điểm cao nhất:

Nếu ngâm khúc “Cung oán” của Nguyễn Gia Thiều khẳng định giá trị nhân văn, phản ánh số phận người phụ nữ, sử dụng nhuần nhuyễn các thể loại ngâm khúc, thể thơ lục bát thì khúc ngâm Nôm Chinh phụ ngâm nhiều hơn đến cuộc sống hàng ngày. Đoạn trích Chinh phụ ngâm thể hiện tình yêu và nỗi nhớ da diết của người vợ nhớ chồng trong chiến tranh và đặc biệt là phần diễn Nôm đặc sắc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.

Mở đầu bài thơ là nhận thức của nhân vật về hoàn cảnh của mình trở nên vô vị, mất hết sức sống trước thời gian. Nhân vật chủ thể trữ tình - chinh phụ xuất hiện:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”.

“Bức màn” và “bóng đèn” là hai hình ảnh tưởng chừng như vô tri vô giác nhưng lại gợi bao cảm xúc. Trong một không gian chật hẹp, tù đọng, câu thơ chuyển tiếp Trong bức rèm, hình như có ngọn đèn thắp lên, liệu có cô đơn, quạnh hiu hơn không, khi ngọn đèn kia và bóng người khá thân thương. Như đã mất hết sức sống, con người đã bị “vật hóa” như những đốm than hồng của ngọn đèn đang cháy quyện lại với nhau ở hai đầu ngọn bấc, vừa đối xứng, vừa đồng nhất, vừa là hiện thân của sự sống của ngọn đèn đang lụi tàn. xuống cảnh lẻ loi của cuộc đời. lời “gà gáy sương”, “hoa rung bóng”…

“Khắc chờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”.

Dòng thời gian xoay vần mà dài như cả năm trời, nỗi buồn tràn như biển cả mênh mông, vang xa như tiếng thở dài của người thiếu nữ đợi chồng. Cuối cùng, dù bóng hình kẻ chinh phụ có hiện lại,  cũng không thoát khỏi nỗi nhớ nhuộm đỏ nước mắt.

Mọi nỗ lực đều không thể thoát khỏi sự cô đơn của thực tại. Thời gian càng trôi, khoảng cách địa lý càng xa, như “bâng khuâng”, “đường cao như trời”, “xa”… Sắc thái nỗi nhớ lớn dần, mở rộng từ ý nghĩ tiễn chồng ra đi ở một nơi xa để dồn nén cảm xúc thành “nỗi đau sâu sắc” và “nỗi đau dĩ vãng”. Nó làm tôi nhớ đến nàng Kiều: “Cảnh nào mà không buồn – Người buồn có bao giờ vui. Lòng người nặng trĩu, cảnh vật nhuốm màu buồn nhưng vẫn thôi thúc người ta thao thức:

“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô”.

Hình ảnh so sánh “sương tựa búa”, “tuyết tựa cưa” là cực đoan và trào dâng một cách tự phát thành những ám ảnh dị thường. Thực chất, chính hoàn cảnh lẻ loi của kẻ chinh phụ đã tạo nên những xung đột cảm xúc khác nhau và thổi vào cả không gian sao cho nhuốm màu đau, thương, nhớ, thương. tin tưởng xen lẫn thất vọng, để rồi hy vọng mong manh như không thể nguôi ngoai.

Bước vào đoạn cuối, kẻ chinh phục vươn tới một không gian rộng lớn hơn, nhưng cảnh vật như chết lặng, như đắm chìm trong giá băng của lòng người. Tất cả chỉ là cảnh vật nên hình ảnh kẻ chinh phục dường như bị che khuất:

“Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu!”

Ở đây, tâm trạng được đẩy lên cao trào. Thiên nhiên no đủ, con người ủ rũ, sức sống trỗi dậy, tâm hồn con người khô héo. Dường như đó cũng là một hồi chuông, một hồi chuông cảnh tỉnh để con người thức tỉnh vươn lên giành, giữ và bảo vệ hạnh phúc trong thế giới mà chúng ta đang sống.

Về nghệ thuật, thể thơ song thất lục bát tạo nên nhịp điệu sầu não kéo dài bất tận. Nếu để ý kỹ, mỗi khổ thơ trong bốn dòng thơ nối nhau tạo thành một đoạn văn, trong đó hai câu lục bát đóng vai trò gợi liên tưởng như những làn sóng cảm xúc tràn về để đối đáp, tương phản, tạo nên sự đối lập ấn tượng và nhấn mạnh trạng thái cảm xúc của kẻ chinh phục, một mặt, nhằm tố cáo những cuộc chiến vô nghĩa đã đẩy biết bao người vào trận chiến và kết quả là kéo dài nỗi đau và sự chia ly. Chúng ta sống không chỉ để tồn tại như một hạt cát vô danh mà còn để sẻ chia, hạnh phúc và để lại dấu ấn trong lòng người khác. Ở đây, một lần nữa tính nhân văn của tác phẩm được đề cao và có lẽ nó sẽ tạo tiền đề cho việc khai thác giá trị nhân đạo để mở rộng đề tài nhân văn trong văn học.

“Vì ai gây dựng nên nỗi đau này” là một câu thơ đau thương, là tiếng khóc thê lương đầy oán hận. Nhưng không dừng lại ở đó, tác phẩm là sự tiếp nối xuất sắc nguồn cảm hứng nhân đạo của nền văn học dân tộc và khẳng định vai trò của con người trong hành trình đi đến cuộc sống và hạnh phúc.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )