Hy vọng với mẫu phân tích Thị Mầu lên chùa (trích Quan Âm Thị Kính) mà chúng tôi đã chia sẻ dưới đây sẽ giúp các em học sinh trau dồi khả năng phân tích đoạn trích Thị Mầu lên chùa để bài làm có đầy đủ nội dung và nghệ thuật nhất, giúp đạt điểm cao trong các kì thi.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý Phân tích Thị Mầu lên chùa (trích Quan Âm Thị Kính):
1.1. Tóm tắt nội dung và chủ đề đoạn trích:
a. Tóm tắt nội dung đoạn trích:
– Đoạn trích kể lại việc Thị Mầu lên chùa cúng tiến và nhìn thấy Kính Tâm liền đem lòng yêu mến và say mê, dùng nói lời ngọt ngào để tán tỉnh.
b. Chủ đề:
– Phê bình phụ nữ buông thả, lẳng lơ.
– Vẻ đẹp của những người biết giữ gìn tiết hạnh, chuẩn mực đạo đức được đề cao.
1.2. Phân tích đoạn trích:
Chủ đề của đoạn trích này được thể hiện qua sự tương phản giữa hai nhân vật: Thị Mầu và Kính Tâm.
a. Nhân vật Thị Mầu:
– Xuất thân: Con gái của phú ông.
– Tính cách: Phóng túng, lẳng lơ.
– Lời nói:
+ Dùng lời nói ngọt ngào để ve vãn và tán tỉnh Kính Tâm.
+ Trêu chọc chú tiểu.
+ Hành động không phù hợp với một tu viện trang nghiêm.
– Hành động:
+ Tán tỉnh chú tiểu bằng cách hát và nói chuyện.
+ Nhảy ra nắm tay bày tỏ tình cảm với Kính Tâm.
b. Nhân vật Kính tâm:
– Xuất thân: Con gái một nông dân nghèo lấy chồng vào một gia đình giàu có. Sau một biến cố, Thị Kính phải cải trang thành nam nhi và vào chùa tu hành.
– Ngoại hình: Đẹp và thanh tú như nhận xét của Thị Mầu.
– Tính cách: Điềm tĩnh, thận trọng, đàng hoàng:
– Ngôn ngữ: chuẩn mực, biết giữ gìn phép tắc.
– Hành động:
+ Bỏ chạy, từ chối, né tránh → Thể hiện phẩm giá, đường hoàng, ngay thẳng.
1.3. Đánh giá đoạn trích:
a. Đánh giá nội dung:
– Thị Mầu tượng trưng cho người phụ nữ lẳng lơ còn Kính Tâm tượng trưng cho người phụ nữ đức hạnh trong xã hội phong kiến.
– Trong đoạn trích này, nhà văn dân gian muốn ca ngợi những người phụ nữ đức hạnh và phê phán những người phụ nữ phù phiếm, phóng đãng.
b. Đánh giá nghệ thuật:
– Miêu tả nhân vật bằng lời nói và hành động.
– Biện pháp tu từ độc đáo: so sánh và điệp ngữ.
– Ca dao truyền thống và dân ca.
2. Phân tích Thị Mầu lên chùa (trích Quan Âm Thị Kính) hay nhất:
Vở chèo ‘Quan Âm Thị Kính’ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của chèo ở Việt Nam cổ đại. Cùng với nhân vật Thị kính (đào thương), Thị mầu được xếp vào loại đào trong các vở chèo do tính chất phù phiếm, phóng khoáng. Tính cách này được thể hiện rõ nét trong đoạn trích ‘Thị mầu lên chùa’. Vở chèo đã khắc họa Thị Mầu bắt gặp say đắm và tìm cách tán tỉnh Kính Tâm trên đường đi chùa.
Nói đến xuất thân, Thị mầu là con gái của một phú ông giàu có. Nàng tự coi mình là một đứa con hiếu thảo vì luôn kính trọng cha mẹ. ‘thầy mẹ tôi tôn kính một lòng’. Khi ngày rằm đến gần, Thị Mầu “chuẩn bị tiền và gạo để mang lên chùa cúng tế”. Thay vì đi chùa vào ngày 15 như mọi người, Mầu đã đi chùa sớm hơn hai ngày.
‘Thế mà Thị Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ
Đò đưa cấm giá tôi lên chùa từ mười ba.
Mười ba,
Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm
Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già
Tôi bước vào lễ Phật Thích Ca
Lễ đức Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng.’
Qua lời nói của Thị mầu, người đọc có thể hiểu được những nghịch lý, mâu thuẫn. Cô nói: ‘tôi muốn cho một tháng đôi rắm/trước vào lễ Phật, ssau thăm vãi già’. Rõ ràng ý định của Mầu là vào chùa trước, và nghi thức tiếp theo là đi thăm vãi già. Tuy nhiên, Mầu chỉ tập trung vào việc gặp gỡ nhà sư. Con số 13 được lặp lại nhiều lần, nhấn mạnh ngày Thị mầu đi chùa cúng tiến. Các con số ‘13’, ‘14’ và ‘15’ tương ứng với hành động hàng ngày của Thị mầu là đến chùa để gặp ai đó. Vì vậy, Mầu mong rằng sẽ có nhiều cơ hội được “thăm” thầy sư vào dịp “rằm”. Như vậy, chúng ta có thể phần nào thấy được sự lẳng lơ của nhân vật thông qua lời mời và sự thừa nhận của Mầu.
Được viết bởi một tác giả dân gian với tính cách nổi loạn và phóng khoáng, Thị mầu đã cho độc giả thấy sự táo bạo của mình bằng cách chọc ghẹo các sư trẻ trong chùa. Mọi điều Mầu nói và làm đều nhằm mục đích ve vãn Kính tâm. Thị mầu nhìn thấy nhà sư trẻ và ngay lập tức yêu anh ta. Khi Kính tâm hỏi tên, Thị mầu trả lời ngay:
‘Tên em ấy à?
Là Thị Mầu con gái phú ông
Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!
Chưa chồng đấy nhá!’
Thị Mầu luôn nhấn mạnh mình là phụ nữ chưa chồng ở độ tuổi 20. Mục đích của câu nói này là thể hiện sự khao khát tình yêu và kết đôi. Ngoài ra, Mầu còn dành nhiều lời khen cho vị sư trẻ này: “Người ở đâu mà đẹp như sao băng vậy?” và “Có ai đến chùa này/ Với chiếc cổ cao ba ngấn và lông mày ngang?” Một giọng ngạc nhiên hỏi: “Ai lại khen một chú tiểu như vậy, Mầu ơi!” Thị mầu không chút do dự trả lời: ‘Đẹp thì người ta khen chứ sao’
Mầu biết nhà mình mất bò nhưng phớt lờ, nói: ‘nhà còn ối trâu’. Mầu dường như không quan tâm đến điều gì khác mà chỉ tập trung tán tỉnh thầy sư trẻ tuổi. Theo thời gian, mức độ tán tỉnh của Thị Mầu càng tăng hơn.
‘Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua’
Đây là sự so sánh độc đáo bộc lộ khát vọng tình yêu cháy bỏng của Thị Mầu. Khi mùa xuân trôi qua, táo trong vườn chín rồi rụng. Do không được chăm sóc và để già nên táo thường có vị chua, chát. Gái rở là những bà bầu thích ăn đồ chua, lạ. Vì thế mới có câu:’gái rở thèm của chua’. Thị Mầu so sánh mình với một cô gái rở và thầy sư với một quả táo rơi trước chùa, nhấn mạnh những ham muốn vi phạm đạo lý thường tình.
Tác giả đã phê phán Thị Mậu, nên nói thêm: “Mầu, nhà có bao nhiêu chị em?/Có ai như mày không” Nhưng trước lời nói đó, Mầu vẫn nói: “Nhà có chín chị em, nhưng tao là người chín chắn’
Tuy nhiên, Mầu đã nói nhiều lời giỗ ngọt nhưng vẫn không thể khiến vị hòa thượng trẻ đáp lại. Mầu đã chọn lời bài hát trêu ghẹo.
‘”Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Song đứng trước cửa chùa
Tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn
[…] Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!’
Những bài hát trêu chọc của Mầu mô tả khái niệm tình yêu tự do và thoải mái, vượt qua những rào cản và định kiến xã hội. Câu ‘Ấy mấy thầy tiểu ơi’ được lặp đi lặp lại, nhấn mạnh đến đối tượng mà Mầu hướng tới và cũng là câu mở đầu cho tâm sự và mong muốn của cô. Khái niệm hạnh phúc của Thị mầu rất đơn giản. Đối với Mầu, ý kiến của người thân không quan trọng bằng cảm xúc của chính mình. Mầu không quan tâm đến bất cứ điều gì, số phận sẽ đến. Trong lời hát, Thị mầu đã dùng các từ ‘Đôi ta’, ‘Quyết đợi chờ lấy nhau’ và ‘Có thiếp có chàng’ để bày tỏ mong muốn được kết duyên với Kính tâm. Mầu sẽ không xinh đẹp nếu không có ai sánh đôi với. ‘em xinh em đứng một mình chẳng xinh’. Đây chính là mong muốn cháy bỏng của một người phụ nữ phóng khoáng, tự do.
Thời gian trôi qua, Thị mầu đã vượt qua giới hạn của mình và trở nên thô lỗ và thiếu tôn trọng, nói:’bỏ mô phật đi’. Bên trong ngôi chùa trang nghiêm, Mầu đã phớt lờ sự trang nghiêm và thốt ra những lời lẽ “phỉ báng” Phật giáo. Lúc này, Thị mầu không hề để ý đến lễ cúng mà chỉ tập trung tán tỉnh nhà sư.
‘Mong cho chú tiểu quét sân
Xích lại cho gần, cầm chổi quét thay
Lá tình không gió mà bay!’
Hay:
‘Muốn rằng cây cải cho xanh
Thài lài rau dệu tám thành bờ tre’
Chú tiểu không hiểu được tình cảm của Thị mầu nên Timau đã phải lòng chú. ‘để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng’.
Không chỉ lời nói mà hành động cũng góp phần thể hiện tính cách, đặc điểm của nhân vật. Mầu hát, trò chuyện và bày tỏ tình cảm của mình với Kính tâm. Đặc biệt, Mầu đã có một hành động rất dũng cảm. Nàng nhảy ra ngoài, cầm tay thay Kính tâm dọn dẹp tòa tháp. Trong thời phong kiến, hành động của Thị mầu là không thể chấp nhận được vì ‘nam nữ thụ thụ bất thân’. Hơn nữa, Kính tâm còn là một người sùng đạo, vượt xa những chuẩn mực, quy tắc.
Bằng cách này, tính cách, đặc điểm của nhân vật được thể hiện qua lời nói và hành động. Nhân vật Thị Mầu có thể miêu tả là một người phụ nữ nổi loạn, đi ngược lại những giá trị đạo đức phong kiến. Với nhân vật này, các nhà văn dân gian muốn lên án, phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn trinh tiết, chuẩn mực.
Trong đoạn trích ‘Thị mầu lên chùa’, Thị mầu là hiện thân của người phụ nữ phóng khoáng, mâu thuẫn với những tư tưởng, chuẩn mực đang thịnh hành của xã hội phong kiến. Ngoài nhân vật Thị kính, Thị mầu cũng là nhân tố góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.
3. Phân tích Thị Mầu lên chùa (trích Quan Âm Thị Kính) chọc lọc:
Quan Âm Thị Kính là một trong bảy vở chèo cổ đầu tiên của nghệ thuật sân khấu chèo Việt Nam, được sáng tác vào khoảng thế kỷ 17 và có sự thay đổi về kết cấu, nội dung, tư tưởng, hình thức nghệ thuật vào thế kỷ 20. Đoạn trích “Thị Mầu Lên Chùa” là từ vở chèo được trích từ “Quan Âm Thị Kính”, trong đó Thị Mầu vào chùa tán tỉnh Kính Tâm. Đoạn trích này đã khắc họa thành công hình ảnh Thị Mầu có tính cách phù phiếm, phóng đãng, thể hiện những nét đặc trưng của nhân vật này qua những lời nói, cử chỉ, hành động đối với Kính Tâm. Qua đó, bày tỏ sự thương cảm đối với số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ.
Vở kịch Thị Mầu lên chùa kể về nhân vật Thị Mầu, người đến chùa cúng tiến, nhìn thấy Kính Tâm, ngay lập tức si mê, ngọt ngào nói chuyện đế tán tỉnh chú tiểu Kính Tâm. Đoạn trích này cho thấy sự tương phản giữa tính cách của hai nhân vật Thị Mầu và Kính Tâm: Đầu tiên, Thị Mầu là con gái của một phú ông, có xuất thân cao quý. Tuy nhiên, Thị Mầu lại phóng túng và lẳng lơ. Người ta thường lên chùa vào những ngày rằm nhưng Mầu lại đi chùa vào ngày 13. Đây là lý do tại sao có tiếng “lẳng lơ”.
“Thế mà Thị Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ
Đò đưa cấm giá tôi lên chùa từ mười ba.
Mười ba, Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm
Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già
Tôi bước vào lễ Phật Thích Ca Lễ đức Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng.”
Thông qua những lời mời gọi và lời kể của Mầu đã cho chúng ta những hình ảnh đầu tiên về tính cách, đặc điểm của nhân vật. Con số “13 ” được lặp đi lặp lại thường xuyên nhấn mạnh ngày Thị Mầu đi chùa cúng tiến. Mầu đến chùa vào các ngày 13, 14, 15 để thực hiện tâm nguyện được gặp gỡ người trong chùa.
Mầu vừa nhìn thấy chú tiểu đẹp đã nói những lời ngọt ngào và tán tỉnh. Thị Mầu cố tình khai quá nhiều thông tin về bản thân khi Kính Tâm yêu cầu cho biết tên để viết sớ. Cô liên tục nhắc nhở mình rằng mình vẫn còn độc thân. Đồng thời bày tỏ mong muốn được kết đôi.
Niềm mong ước giao duyên của Mầu còn được bộc lộ qua câu nói:
“Này thầy tiểu ơi! Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua.”
Táo trong vườn thường chín và rụng sau mùa xuân. Chẳng ai quan tâm đến nó, nó vừa già vừa chua. Vấn đề là các cô gái rở mang luôn thèm những món ăn chua, lạ. Thị Mầu bày tỏ mong muốn được ở bên chú tiểu bằng cách so sánh mình như gái rở và chú tiểu như một quả táo rơi trong vườn. Mầu vào chùa lễ bái nhưng không thèm để ý đến Phật mà chỉ chuyên tâm trêu chọc chú tiểu.
Mầu không dừng lại ở những lời ngọt ngào mà còn cố tình trêu chọc chú tiểu bằng lời hát:
“Song đứng trước cửa chùa
Tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Một cành tre, năm bảy cành tre
Phải duyên thời lấy, chớ nghe họ hàng […]
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Trúc xinh trúc mọc sân đình
Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!”
Trong đoạn này, Mầu sử dụng hình ảnh từ các ca dao dân gian như “cành tre”, “mẫu đơn”, “nhà thờ”, “thiếp”, “chàng”, “cơm hàng có canh”, “trúc mọc đầu đình” để bày tỏ tình cảm và tán tỉnh chú tiểu. Đặc biệt, quan niệm về tình yêu của Thị Mầu còn được thể hiện thông qua lời hát. Với Mầu, tình yêu có nghĩa là tự do và vượt qua mọi rào cản xã hội. Thị Mầu hoàn toàn không quan tâm đến thành kiến và chỉ quan tâm đến cảm xúc cá nhân của mình.
Càng về cuối vở chèo, mức độ lời nói của Mầu càng được nâng cao. Nổi bật là sự sỗ sàng của câu trước chốn cửa chùa “Bỏ mô Phật đi!”. Lúc này Mầu chỉ tập trung vào chú tiểu mà không quan tâm gì đến lễ bái. Lời nói này thể hiện sự thiếu tôn trọng, coi thường các tăng ni của chùa. Làm tất cả những điều này mà Kính Tâm không để ý, tâm trạng của Thị Mầu trở nên u ám và buồn bã, không còn vui tươi, phấn khởi như lúc mới vào chùa.
“Muốn rằng cây cải cho xanh
Thài lài, rau dệu tám thành bờ tre
Lắng tai tôi nói cho mà nghe
Tri âm chẳng tỏ tri âm
Để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng!”
Tính cách của một nhân vật được bộc lộ không chỉ qua lời nói mà còn qua hành động. Thị Mầu vượt qua mọi quy tắc, tiêu chuẩn và thể hiện thái độ dũng cảm, nổi loạn: vội vã ra ngoài và nhận dọn dẹp thay cho Tiểu Kính. Có thể nói, toàn bộ cách cư xử của Mầu đều thể hiện sự phóng khoáng trong tính cách của cô.
Ngược lại với nhân vật Thị Mầu, Kính Tâm lại có vẻ đẹp và phẩm chất khác. Khác với Thị Mầu, Kính Tâm sinh ra trong một gia đình nông dân và sau đó kết hôn trong một gia đình giàu có. Vì một sự hiểu lầm, cô phải bỏ nhà đi, cắt tóc, giả làm nam nhi và xin đi tu khổ hạnh ở chùa Vân. Mặc dù Kính Tâm giấu kín danh tính là một chú tiểu nhưng vẫn toát lên vẻ trang nghiêm. Qua những nhận xét và khen ngợi của Thị Mầu, chúng ta có thể hình dung ra vẻ đẹp trang nghiêm và thuần khiết của Kính tâm.
Ngay cả trước những lời nói tán tỉnh và hành động của Thị Mầu, Kính Tâm vẫn luôn khiêm tốn trong thái độ, lời nói và cử chỉ.
“Khấn nguyện thập phương
Kính trình Tam Bảo
Lòng người có đạo
Đem của cúng dàng […]
A di đà Phật!
Tôi đã đèn nhang xong, mời cô vào lễ Phật.”
“Ngẫm oan trái nhiều phen muốn khóc
Thấy nhân duyên nghĩ lại nực cười
Hẳn vô tình thế mới trêu ngươi
Vì hữu ý nên rằng hoảng mắt
Chứ có biết đâu mình cũng chỉ là…”
Đây là những lời nói và suy ngẫm cuối cùng của một người đã trải qua nhiều đau khổ, khó khăn. Kính Tâm, người đã trải qua nhiều chuyện trong đời đến mức phải cắt tóc để đi tu, cảm thấy nực cười vì một mối nhân duyên ngang trái. Có những sự việc ngoài ý muốn đẩy con người vào những tình huống trớ trêu. Điều này rất giống với tình hình hiện tại ở Thị Mầu. Thị Mầu có tình ý nên không biết Kính Tâm chỉ là một cô gái giả trai. Khi Thị Mầu vội chạy ra nắm tay, Kính Tâm nhẹ nhàng nói: “Cô buông ra để tôi quét chùa kẻo sư phụ người quở chết!”. Có lúc, Kính Tâm sợ hãi trước những hành động táo bạo của Thị Mầu đến mức phải bỏ chạy và từ chối.
Có thể nói Thị Mầu đại diện cho người phụ nữ nổi loạn còn Kính Tâm đại diện cho người phụ nữ đức hạnh trong xã hội phong kiến. Trong đoạn trích này, nhà văn dân gian muốn ca ngợi những người phụ nữ còn trinh và phê phán những người phụ nữ phù phiếm, phóng đãng. Để nhấn mạnh sự mâu thuẫn, tương phản giữa hai nhân vật, tác giả tập trung khắc họa bằng lời nói và hành động.
Đoạn trích “Thị Mầu lên chùa” thể hiện cái nhìn của các nhà văn học dân gian về người phụ nữ trong xã hội xưa. Đặc biệt, bài “Thị Mầu Lên Chùa” và vở chèo “Thị Kính” nói chung sẽ còn mãi trong lòng người dân Việt Nam bởi những giá trị nhân văn và ý nghĩa của nó.