"Bàn luận về phép học” của Nguyễn Thiếp dâng tới vua Quang Trung thể hiện cái tâm của Nguyễn Thiếp với việc chấn hưng nền quốc học nước nhà. Dưới đây là bài viết về: Phân tích tác phẩm Bàn luận về phép học chọn lọc siêu hay.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý Phân tích tác phẩm Bàn luận về phép học chọn lọc siêu hay:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu về Nguyễn Thiếp – một viên quan nhà Lê, có nhiều đóng góp về chính trị.
– Bàn luận về phép học là một bài tấu đã đưa ra một cách khách quan về mục đích của việc học và cách học cho hiệu quả.
1.2. Thân bài:
a. Bàn luận về mục đích của việc học
– Mục đích của việc học: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo”
– Chỉ học tập thì con người mới có đạo đức
– Học là một quá trình quy luật muôn đời
– Phê phán lối học hình thức
– Nêu lên hậu quả của những lối học tiêu cực ấy
⇒ Những lời bàn luận sâu sắc, xác đáng với tầm nhìn đầy tâm huyết với nước nhà
b. Bàn luận về cách học
– Phê phán cách học sai lầm và mục đích tai hại của nó
– Tác giả trình bày quan điểm tích cực về chủ trương phát triển sự học
– Bên cạnh đó nêu lên chủ trương phát triển sự học khắp cả nước
⇒ Về nội dung học, tác giả theo truyền thống cũ, mà chủ yếu là nội dung về cải cách về phương pháp học
c. Tác dụng của phép học
– Mục đích học chân chính là cơ sở vững chắc cho đạo học.
⇒ Tin tưởng rằng, và cũng gửi gắm niềm tin về tương lai tốt đẹp của đất nước
1.3. Kết bài:
– Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm
2. Phân tích tác phẩm Bàn luận về phép học chọn lọc siêu hay:
La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp danh sĩ nổi tiếng thời Hậu Lê, người có công lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Thanh, xây dựng đất nước, chấn hưng giáo dục nước nhà. Bàn luận về phép học (Luận học pháp) là bài viết phản ánh đầy đủ tài trí và bản lĩnh của Nguyễn Thiếp.
Khi được hỏi về kế sách trị quốc, tháng 8 năm 1791, Nguyễn Thiếp dâng vua Quang Trung bản tấu văn với ba nội dung gồm: quân đức, dân tâm, và học pháp. Nội dung chính của ba phần đều thống nhất ở chỗ, là khuyên vua nên tu đức để an lòng dân, tính kế lâu dài. Trong đó, phần cuối là phần Luận học pháp chủ yếu bàn về phép học qua đó, định hướng cả xã hội hướng theo tư tưởng Thánh hiền. Đây là đoạn chứa đựng những tư tưởng có ý nghĩa chiến lược của La Sơn Phu Tử.
Phần đặt vấn đề ngắn gọn nhưng khái quát được ý nghĩa của việc học, bằng cách trích dẫn những châm ngôn được coi là đúng một cách hiển nhiên như: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo”. Vai trò của việc học là để hiểu đạo lí, “là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người”. Học hiểu lẽ đối xử giữa mọi người. Dù có thông minh, hay “tính bản thiện” nhưng nếu không học hành cũng như là ngọc không được mài.
Tiếp đó, Nguyễn Thiếp nêu ra một thực trạng đương thời khiến bất cứ nhà nho nào cũng phải đau lòng rằng: “Nước Việt ta từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền”. Người học chỉ “đua nhau lối học hình thức”; không coi trọng học để hiểu đạo lí mà chỉ để thi cử với mục đích “hòng cầu danh lợi”. Theo quan niệm xưa, nếu quá coi trọng danh lợi, sẽ dễ đánh mất tính thiện, coi trọng danh lợi là phải mưu toan và tất cả những hiện tượng ấy là nguyên nhân khiến người ta bất chấp đạo lí. Nguyễn Thiếp cho rằng, vì đua nhau học hình thức mà mọi người “không còn biết đến tam cương, ngũ thường”.
Tam cương là mối quan hệ là giềng mối, là trụ cột của của gia đình cũng như xã hội; đó là mối quan hệ giữa vua – tôi, cha – con và vợ – chồng. Ở thời Nguyễn Thiếp, với các nhà nho chân chính nếu trong gia đình, mối quan hệ cha – con, hay vợ – chồng được duy trì thì gia đình yên ấm; và trong xã hội, mối quan hệ vua – tôi duy trì thì xã hội ổn định. Sự duy trì tốt của Tam cương liên hệ chặt chẽ với Ngũ thường gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Tam cương để duy trì phép nước và nếp nhà; ngũ thường là để tu thân, sửa đức. Nếu Xã hội thiếu Tam cương thì trụ cột lung lay; con người thiếu ngũ thường sẽ không biết ứng xử, dễ trở nên vô đạo. Bằng ngòi bút phê phán, Nguyễn Thiếp cho rằng “hòng cầu danh lợi” là mối nguy của đất nước: tạo ra một xã hội không coi trọng đạo lí; dẫn tới một thực trạng kéo dài đó là “chúa tầm thường, thần nịnh hót”.
Như vậy, Nguyễn Thiếp đã chỉ ra, phép học có liên quan chặt chẽ với vận nước và ông cho rằng các triều đại phong kiến đương thời nhanh chóng sụp đổ là có nguyên nhân sâu xa từ thiếu sự học. Đánh giá số phận của triều đại trước, với câu nhận định “nước mất nhà tan đều do những điều tệ hại ấy”. Đó là lí do vì sao La Sơn Phu Tử dù có đỗ cao ở thời Lê mà không ra làm quan. Nguyễn Thiếp đã chỉ rõ nguy cơ mất nước nếu học chỉ để cầu danh lợi. Đó là lời tấu trình với ngụ ý: mong hoàng thượng suy xét từ vết xe đổ của tiền triều, nhìn rõ “việc xưa xem xét, chứng cớ còn ghi” để rút ra bài học cho mình.
Từ việc xác định rõ thực trạng giáo dục và chỉ ra nguy cơ mất nước, Nguyễn Thiếp đã đưa ra những giải pháp toàn diện để mong làm thay đổi nền giáo dục nước nhà.
Trước tiên – theo tác giả, nên mở rộng quy mô của việc học cũng như đối tượng học. Nguyễn Thiếp khẩn thiết “cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tùy đâu tiện đấy mà đi học”. Ở thời phong kiến, sự học chỉ được tập trung ở kinh kỳ và đối tượng đi học chủ yếu là con em quan lại, quý tộc nên giải pháp cần khắc phục sự hạn chế về quy mô và đối tượng với ý nghĩa “phổ cập” cho nhiều người.
Sau nữa, tác giả đề xuất thay đổi cả nội dung lẫn phương pháp dạy học: “Phép dạy, nhất định phải theo Chu Tử”. Chu Tử là nhà giáo dục đề xướng phương pháp dạy học phải đi tuần tự. Và theo phép dạy ấy Nguyễn Thiếp khuyên “lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến Tứ thư, Ngũ kinh, Chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm”. Nội dung giáo dục của ông tuy không còn phù hợp với ngày nay nhưng phương pháp giáo dục này lại luôn đúng ở mọi thời đại, cần phải học tuần tự từ thấp đến cao, phải có một khả năng khái quát và chú ý nguyên tắc “học đi đôi với hành”.
Giải pháp thay đổi cách dạy học mà Nguyễn Thiếp đề xuất hướng đến khắc phục lối học hình thức, với mục đích là khôi phục “nền chính học thất truyền”. Đây cũng là con đường để hướng để cho “kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên”.
Bản tấu văn không chỉ nói về học thuật, mà còn chứa những ý niệm chiến lược về trị quốc lâu dài. Tư tưởng này bao gồm việc đánh giá cao người tài và phù hợp với nội dung Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung (do Ngô Thì Nhậm soạn). Câu “Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua” không dài nhưng chứa đựng những lo lắng của một người trí thức muốn sử dụng kiến thức để giúp đời, là giọng điệu của sự tôn trọng và ước muốn giúp minh quân thu phục lòng người, và đó là cách ổn định đất nước từ gốc rễ. Chỉ có việc sử dụng học thuật để trị quốc, dựa vào chữ nghĩa Thánh hiền để giáo dục con người và thu phục tâm hồn, mới có thể đạt được sự thái bình trong xã hội. Điều này cần được đặt trong bối cảnh cuộc sống của Nguyễn Thiếp, khi chế độ phong kiến gặp khủng hoảng, chiến tranh không ngừng, và cuộc sống dân chúng bị suy sụp, vì vậy người ta mới cảm nhận được khát khao của một quốc gia “vững yên” trong lòng. Tác giả gửi thông điệp đó qua bản tấu và gửi tới vị vua mà ông tin là minh quân, thánh đế – vua Quang Trung.
Trong phần kết tác, tác giả tóm lược vấn đề bằng một câu ngắn gọn, vẫn nói về vai trò của việc học: “Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”. Trong khi phần nêu thực trạng được lập luận theo cách nêu phản đề, thì phần kết lại nêu chính đề. Phản đề cho rằng học thuật chỉ dẫn đến “chúa tầm thường, thần nịnh hót” trong triều đình, trong khi chính đề cho rằng khi học thuật phát triển, “triều đình ngay ngắn, thiên hạ thịnh trị”. Đây là tư tưởng và mục đích cốt lõi của việc học.
Luận học pháp, cũng như toàn bộ bản tấu văn của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung, là một văn bản thuyết phục mạnh mẽ. Sự thuyết phục trong bản tấu được thể hiện qua lời nói ôn hòa, khiêm tốn, tinh tế, không dùng quá nhiều ví dụ, nhưng sâu sắc và hợp tình, hợp lý. Tư tưởng của Nguyễn Thiếp, như đã đề cập ở trên, không phải là mới nhưng đáng quan trọng vì nó mang tính nhân văn. Tư tưởng này cũng thể hiện tầm nhìn xa, với sự tập trung vào ổn định đất nước lâu dài của một người hiền giả, và việc nêu ra mối quan hệ giữa giáo dục và sự ổn định, thịnh vượng lâu dài của đất nước là một bài học và một tư tưởng không thể bỏ qua.
3. Phân tích tác phẩm Bàn luận về phép học ngắn gọn:
“Bàn luận về phép học” trích từ hài tấu của Nguyễn Thiếp dâng tới vua Quang Trung vào tháng 8 năm 1791. Lúc bấy giờ ông đang phụ trách việc biên soạn sách và lãnh đạo xây dựng Trung đô Phượng Hoàng (Nghệ An). Bài tấu này thể hiện cái tâm của Nguyễn Thiếp với việc chấn hưng nền quốc học nước nhà, nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước. Các vấn đề như mục đích của việc dạy học, nội dung cũng như phương pháp học tập đã được ông trình bày một cách ngắn gọn và rất tường tận.
Mở đầu, Nguyễn Thiếp nhắc lại câu cổ ngữ được minh chứng qua thời gian: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo”. Mục đích học là hiểu và biết được “lẽ đối xử hàng ngày giữa mọi người”. Học để mở mang trí tuệ, đạo đức. Đạo là đạo làm người.
Nguyễn Thiếp cũng than phiền “nền chính học đã bị thất truyền”, với lối học “đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi”, với những người “không còn biết đến tam cương, ngũ thường”; “Chúa trọng nịnh thần”. Cuối thời Lê – Trịnh, xảy ra thực trạng buôn quan bán tước vì Nhà nước thiếu tiền nên đặt ra lệ thông kinh: hễ ai nộp ba quan sẽ được đi thi hương, không phải qua khảo hạch. Những người đi buôn, làm ruộng ai cũng vào thi; người thì dùng sách, kẻ thì thuê người học. Sống trong thời kì đen tối ấy, Nguyễn Thiếp vô cùng đau buồn: “Nước mất nhà tan đều do những điều tệ hại ấy”. Nguyễn Thiếp đã có một cách nói ôn hòa mà sâu sắc.
Phần thứ hai, Nguyễn Thiếp nói đến nội dung cùng phương pháp học tập. Con cháu các nhà văn võ, thuộc lại “đều tùy đãi tiện đấy mà đi học”. Tác giả cho hay nội dung học tập: “Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến Tứ thư, Ngũ kinh, Chư sử”. Mục dù nội dung học tập mà ông nêu lên không có gì mới, vì vượt qua được những hạn chế của lịch sử nhưng phương pháp học rất xác đáng và tiến bộ. Học phải đi đôi với hành thì “Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, Nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua”.
Đạo học với ý nghĩa to lớn là: “Đạo học thành thì người tốt nhiều, người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”. Như vậy, việc học góp phần đào tạo nhân tài, nâng cao dân trí, góp phần xây dựng đất nước.
Cuối cùng, Nguyễn Thiếp chia sẻ tâm tư của mình. Bản tấu văn về học thuật là những lời “thành thật”, không phải lời “vu vơ”. Ông khiêm tốn và tôn kính, mong Hoàng thượng xem xét.
Nguyễn Thiếp được tôn trọng cao trong việc đánh giá tài năng, được người đương thời gọi là La Sơn phu tử. Mặc dù tài năng của ông chưa kịp được thể hiện, vua Quang Trung đã qua đời. Ông đã từ chức và rút về sống ẩn dưới núi và trong rừng. Ông qua đời ở tuổi 81, với phẩm chất thanh bạch và cao cả. Bài tấu “Bàn luận về phép học” của ông với những quan điểm về mục đích và phương pháp học tập rất chính xác và tiến bộ. Tuy về nội dung học tập, ý kiến của ông chưa vượt qua được giới hạn của lịch sử và thời đại. Tuy nhiên, lòng nhiệt tâm của La Sơn phu tử đối với quốc gia, nhân dân và sự trồng người đã để lại sự tôn kính và ngưỡng mộ trong lòng đời sau.