Bích Câu kỳ ngộ (Cuộc gặp gỡ lạ lùng ở Bích Câu ) là truyện Nôm của Việt Nam, dài 678 câu thơ lục bát, kể về sự tích một người học trò tên là Trần Tú Uyên lần đầu gặp nàng Giáng Kiều ở đất Bích Câu đã đem lòng yêu nhớ. Đoạn trích 'Nỗi niềm tương tư' nằm ở phần đầu truyện, diễn tả tâm trạng tương tư người đẹp của Tú Uyên. Dưới đây là các mẫu Phân tích Nỗi niềm tương tư (trích Bích Câu kì ngộ).
Mục lục bài viết
1. Phân tích Nỗi niềm tương tư (trích Bích Câu kì ngộ) hay nhất:
Đoạn trích ‘Nỗi niềm tương tư’ là một đoạn trích trong bài thơ Việt Nam ‘Bích Câu Kỳ ngộ’ viết theo thê thơ 6-8, hay còn gọi là thể thơ lục bát. Bài thơ Việt này dài khoảng 700 câu thơ kể về chuyện tình của Giáng kiều và Tú uyên. Trọng tâm của tác phẩm này là câu chuyện tình yêu đẹp giữa con người và các nàng tiên cũng như khát vọng về một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, tự do của các cặp đôi. Tiêu đề của đoạn trích này do người biên tập cuốn sách đưa ra.
Sau khi tham dự lễ hội Ngọc Hồ, tình cờ gặp được người đẹp Giáng kiều, Tú Uyên nảy sinh tình cảm với cô, ngày đêm mong mỏi cô. Khi trở về nhà, anh mơ thấy mình tương tư Giáng kiều và mong muốn được gặp cô ít nhất một lần. Đoạn trích ‘Nỗi niềm tương tư’ miêu tả nỗi khao khát của chàng trai Tú uyên.
‘Lần trăng ngơ ngẩn ra về
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa quên’
Động từ ‘ngơ ngẩn’ đã mô tả chính xác tâm trạng của Tú uyên lúc này. Khi gặp nàng ở lễ hội Ngọc Hồ, chàng trai cảm thấy hoài niệm và bối rối vô tận. Tú Uyên mê mẩn đôi mắt đẹp của mỹ nhân, không ăn không ngủ được vì nhớ cô ngày đêm. Anh ra đi với trái tim nặng trĩu và chỉ muốn gặp được tình yêu trong mộng của mình. Việc sử dụng các truyện cổ điển, truyện kinh điển như Giấc hòe, Cầu Hoàn, Văn quân làm cho ý nghĩa thơ trở nên trang trọng hơn. Tú uyên, người tưởng tượng ra trạng thái hiện tại trong giấc mơ của mình, cũng không khác gì Tương Như, nhớ nhung tiếng đàn của Văn quân như giấc mơ dưới gốc cây hòe. Những hình ảnh tượng hình như ‘bướm kia vâng lấy sầu hoa’ ngầm thể hiện tình yêu và nỗi nhớ trong lòng anh dành cho Giáng kều. Sự tương tư dành cho nàng lớn đến mức anh ấy nhớ đến nàng trong mọi việc mình làm. Mỗi khi hắp một ngọn đèn, mỗi khi nâng ly rượu, mỗi khi nghĩ về điều gì đó, luôn có hình ảnh của người thương ở đó.
‘Nỗi nàng canh cánh nào quên
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là?’
Tú uyên cũng có linh cảm rằng cô gái anh gặp là một nàng tiên hay một nàng tiên khéo léo dựa trên những cử chỉ duyên dáng, phong thái điềm tĩnh và vẻ đẹp lấn át cả nước và thành.
Những dòng thơ sau đây tiếp tục diễn tả nỗi khao khát, tương tư của Tú Uyên bằng những câu chuyện, sự ám chỉ, ẩn dụ. Có lúc uống một ly rượu đào, có lúc ngồi năm tiếng, có lúc ngồi chờ trăng. …Chi tiết này cho thấy rằng Tú uyên luôn nhớ đến Giáng kiều dù bất cứ khi nào.. Yêu vẻ đẹp của nàng cũng giống như say không uống một ngụm, thức suốt năm tiếng nghe tiếng mõ chiêng mà bồn chồn. Hình ảnh sóng nước Tương Côn Hàn thể hiện sự khao khát, mong mỏi hóa thành nước mắt.
‘Lặng nghe những tiếng đoạn trường
Lửa tình dễ đốt, sóng Tương khôn hàn.’
Bài thơ cuối cùng kết thúc đoạn trích những bộc lộ khát vọng của Tú uyên.
‘Ngổn ngang cảnh nọ tình kia
Nỗi riêng, riêng biết, dã dề với ai
Vui xuân chung cảnh một trời
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư’
Tú uyên đã tập trung hết tất cả vào hình ảnh nàng Giáng kiều. Chàng trai mong được gặp người thương cả ngày lẫn đêm, Tú uyên giờ trở nên kẻ si tình mất rồi.
Đoạn trích này sử dụng yếu tố tự sự, trữ tình và thể thơ 6-8 quen thuộc của truyện thơ Nôm. Việc sử dụng lối kể chuyện, điệp từ ngữ, ẩn dụ, so sánh độc đáo thể hiện tình cảm, mong muốn của Tú uyên dành cho Giáng kiều. Nỗi nhớ khiến người ta sống trong mộng ảo, ăn không ngon ngủ không yên nên Tú uyên tìm mọi cơ hội để được gặp lại Giáng kiều và bày tỏ tình yêu, nỗi nhớ của mình. Đoạn trích này thể hiện nét độc đáo trong lối viết của tác giả Vũ Quốc Trân, sử dụng những câu chuyện, tài liệu tham khảo nổi tiếng và những thủ pháp thông thường đặc trưng của thơ cổ. Điều này khắc họa hình ảnh Tú uyên đang gặp rắc rối trong tình yêu, si tình vô cùng.
2. Phân tích Nỗi niềm tương tư (trích Bích Câu kì ngộ) sâu sắc nhất:
Có thể nói, ‘bích câu kì ngộ’ là một câu chuyện thơ nổi tiếng với thể thức 6 – 8 linh hoạt, miêu tả chuyện tình giữa Tú uyên và nàng tiên Giáng kiều. Đoạn trích sau đây trong ’Nỗi niềm tương tư’ kể về nguồn gốc của mối tình đẹp như mơ này. Đoạn trích này mô tả cảm xúc tương tư sâu đậm của Tú uyên sau khi gặp một mỹ nhân ở chùa Ngọc Hồ.
Tú Uyên là một học giả nghèo, mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Một lần anh đến thăm Bích câu và thấy cảnh đẹp của nó nên quyết định xây một ngôi nhà ở đó và đốt sách ngày đêm và đốt đèn để học tập. Một hôm, trời xuân đẹp nên Tú uyên đi dự lễ hội chùa Ngọc Hồ. Anh nhặt một chiếc ‘lá hồng’ có viết một bài thơ trên đó. Khi Tú uyên đang định đáp lại thì một thiếu nữ xinh đẹp bất ngờ xuất hiện trước cánh cổng có ba lối vào. Anh tiếp tục đi theo bóng cô gái cho đến khi đến được Quảng Văn nhưng không còn thấy dấu chân cô nữa. Khi anh về nhà, thì nhớ thương cả ngày lẫn đêm.
‘Lần trăng ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên.
Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là!
Bướm kia vương lấy sầu hoa,
Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh!’
Có thể thấy tâm trạng tương tư của Tú Uyên. Dù chỉ gặp nhau trong chốc lát nhưng chàng như đã nhớ Giáng kiều mãi mãi. Anh yêu cô đến mức “choáng váng” đến mức ngọn đèn thông cháy hết nhưng anh vẫn trằn trọc không ngủ được và “ngủ không ngon giấc”. Anh tự hỏi liệu cô gái xinh đẹp này có phải là một nàng tiên biết khi nào sẽ gặp lại anh không. Sự thương nhớ đối với người trong giấc mơ không chỉ được thể hiện trong suy nghĩ của người học giả mà còn qua cử chỉ của người đó.
‘Có khi gảy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân.
Cầu hoàng tay lựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào!
Có khi chuốc chén rượu đào,
Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao đã đầy.
Hơi men không nhấp mà say,
Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương.
Lặng nghe những tiếng đoạn trường,
Lửa tình dễ đốt, sông Tương khôn hàn.
Có đêm ngắm bóng trăn tàn,
Tiếng chiêm hót sớm, trận nhàn bay khuya.’
Từ “có” được lặp đi lặp lại 4 lần thể hiện sự bất lực của Tú uyên khi không ngừng nghĩ về người thương này. Anh thấy rằng chỉ nghĩ thôi thì chưa đủ, anh còn mong cô sẽ nghe ‘đàn một khúc đàn tranh’ và nghe được tình cảm chân thành này. Giống như khi cô gái Văn quân nghe thấy tiếng đàn Tương Như “Cầu Hoàng” thì đi theo. Muốn bộc lộ tâm tình thầm kín, phải mượn ly rượu đào, hoặc phải mượn rượu để tỏ tình. Anh Tú Uyên muốn uống một ly ngọc giao kết duyên với người thương. Lúc này chàng trai đã say, nhưng không say. Cơn say này được ví như “mùi ký ức” hay cơn say tình yêu dành cho nàng tiên. Ngoài ra, không biết khi nào mới được gặp lại người thương, anh phải “ngồi năm canh” mới nghe được “những âm thanh dai dẳng” và cảm thấy đau thắt ruột khi chờ đợi người thương. Chính vì thế mà chúng ta hiểu Tú uyên dành cho cô gái này bao nhiêu tình cảm. Chỉ cần một ánh nhìn cũng khiến chàng say đắm, ngọn lửa tình yêu được thắp lên. Đặc biệt, tác giả dùng từ ‘sông tương’ để miêu tả những giọt nước mắt, dẫn truyền thuyết rằng khi vua Thuần băng hà, hai người phụ nữ Nga Hoàng và Nữ anh đã khóc lóc thảm thiết bên bờ sông Tương. Nước mắt ở đây là nước mắt của Tú uyên mất đi người mình thầm thương trộm nhớ, mất đi cả cuộc đời. Anh cũng ngồi “ngắm bóng trăng khuyết” chờ tin tức của nàng.
Ngay cả khi nỗi nhớ này trở nên rõ ràng, nó vẫn là một “sự hỗn loạn” không ngừng nghỉ.
‘Ngổn ngang cảnh nọ tình kia,
Nỗi riêng, riêng biết, dã đề với ai!
Vui xuân chung cảnh một trời,
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư’
Đã mượn ‘chén rượu đào’ và ‘khúc đàn tranh’ nhưng đâu thể nói được với ai. Dù cảnh xuân có vui, nếu không gặp nàng, Tú uyên vẫn chỉ có một nỗi ‘sầu xuân riêng nặng một người tương tư’. Xuân Diệu từng viết trong Bài thơ ‘tình thứ nhất’ để diễn tả tâm trạng của mình hệt như tâm trạng của Tú Uyên giàu cảm xúc, mãnh liệt và chung thủy.
‘Thôi thôi nhé, hoa đã sầu dưới đất
Cười trên cành sao được nữa em ơi!
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Đem cho em là đã mất đi rồi!’
Đoạn trích ‘Nỗi niềm tương tư’, một bài thơ kết hợp tự sự và trữ tình, thể hiện nỗi khao khát tình yêu và khát khao tình yêu cháy bỏng của học giả Tú Uyên. Phải chăng tình yêu nồng nàn và chân thành là câu trả lời chung cho những ai đang lạc lối trong giấc mơ tình yêu? Mỗi chữ trong bài thơ này dường như đều nói lên sự chân thành, tấm chân tình đó?
3. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm:
3.1. Giá trị nội dung:
‘Nỗi niềm tương tư’ là một đoạn trích trong ‘Bích câu kì ngộ’ thể hiện rõ tâm trạng của Tú Uyên, người ngày đêm thương nhớ cô gái Giáng kiều. Sự thương nhớ đối với một người trong giấc mơ được thể hiện và thể hiện không chỉ trong suy nghĩ của người học giả mà còn trong cử chỉ của người đó. Nỗi nhớ này dù có bộc lộ nhưng vẫn “đau lòng” và thể hiện tình yêu của một tâm hồn đẹp và mạnh mẽ khi yêu.
3.2. Giá trị nghệ thuật:
– Việc sử dụng thể thơ 6-8 kết hợp với các yếu tố viết chữ Nôm, trần thuật, miêu tả đã tạo nên những tác phẩm thơ tự sự thành công.
+ Tường thuật: Câu chuyện về những ngày lãng mạn của một chàng trai trẻ.
+ Lời trữ tình: diễn tả tâm tư, tình cảm, nỗi nhớ nhung sâu sắc.