Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một áng văn sâu sắc về người nghệ sĩ chân chính yêu cái đẹp nhất quyết không chịu khuất phục cường quyền sẵn sàng chết mà không lo sợ. Bài viết dưới đây là bài Phân tích nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù mời bạn đọc theo dõi.
Mẫu bài phân tích số 1:
Tác phẩm “Chữ người tử tù” là một truyện ngắn ca ngợi những con người tài hoa với phẩm chất cao đẹp, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả đó có là chốn ngục tù tối tăm bẩn thỉu thì nhân vật Huấn Cao vẫn rạng ngời những phẩm chất cao đẹp. Trên con đường đấu tranh và giữ gìn cái đẹp chân chính nhất người nghệ sĩ tài hoa Huấn Cao luôn bảo toàn trọn vẹn phẩm chất cao đẹp, không gục ngã trước uy quyền, không hạ mình trước cái xấu xa. Thông qua người nghệ sĩ đương thời là Huấn Cao, tác giả Nguyễn Tuân đã khiến cho người đọc có nhiều suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời, về con người về cái đẹp của nghệ thuật.
Huấn Cao là một người nghệ sĩ tài hoa khó tìm. Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân tô đậm cái biệt tài viết chữ thư pháp đẹp của ông Huấn. Đây là một bộ môn nghệ thuật đầy tinh hoa, bởi tài năng hội hoạ thì nhiều, nhưng người có tài thư pháp thì rất hiếm. Chữ trong tác phẩm thư pháp không phải là hội tụ của sự khéo léo, tinh tế, thạo nghề của một người viết mà còn là yêu cầu sáng tạo đối với nhà thư pháp. Mỗi nét bút là sự kết tụ tinh hoa và nhiệt huyết của người nghệ sĩ viết thư pháp trong đó chứa đựng những khát khao thẳm sâu trong tâm hồn nhân cách của người viết. Chữ của Huấn Cao là nhân cách cao đẹp và phi thường bởi không chỉ vì “đẹp lắm, vuông lắm” mà còn nói lên “những cái hoài bão tung hoành của một đời người”. Chính vì lẽ ấy “có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời” đối với viên quản ngục.
Huấn Cao còn là người kiên cường theo tiếng gọi của tự do cầm gươm chống lại binh quyền thống trị. Mặc dù chí lớn không thành và trở thành tử tù nhưng ông vẫn hoàn toàn tự do về tinh thần, tư thế luôn đường hoàng, oai phong. Trước mặt ngục quan và đám lính tù ra oai, Huấn Cao lạnh lùng “khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái” để khẳng định cái tư thế oai phong của mình. Khi quản ngục “khép nép hỏi ông Huấn: ngài có cần gì thêm nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất”. Ông khẳng khái trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Đây đúng là một khí thế thật ngang tàng và đầy kiêu hãnh. Rồi khi thấu hiểu tấm lòng của quản ngục “là một tấm lòng trong thiên hạ” ông đã bằng lòng cho chữ trong tư thế “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Hai hình ảnh đối lập được biểu lộ một là xiềng xích, cường quyền và không khí ngột ngạt của ngục tù và hai là người nghệ sĩ đang tích cực cống hiến cho cái đẹp, cho nghệ thuật. Dưới ngòi bút của nhà văn Nguyễn Tuân, Huấn xứng đáng là một bậc đại trượng phu tuy không cầm binh đạo nhưng vẫn uy nghiêm với phương châm sống: “Bần cư bất năng di, phú quý bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất”.
Huấn Cao là con người có thiên lương cao khiết luôn ý thức giữ gìn trọn vẹn cái tài của trời cho. Ông Huấn ngẩng cao đầu trước cường quyền, tiền tài “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ”. Ông cảm kích với những người “sống giữa một đống cặn bã” mà giữ vững “thiên lương”. Khi biết viên quản ngục là người “có sở thích cao quý” cùng với “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” ông tự trách “thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Đây không phải là sự dâng nộp tài hoa của một tử tù cho viên quan, mà là trân trọng với kẻ liên tài, người tri kỉ, ông vẫn nâng niu trân trong chút “thiên lương” ở con người phải sống trong cái ác nhưng vẫn hướng thiện. Ông Huấn không chỉ cho chữ mà còn đĩnh đạc bảo thầy Quản nên thoát khỏi cái nghề này đi rồi hãy nghĩ đến chơi chữ. Đây là lời cuối của Huấn Cao trước về cõi vĩnh hằng, là cái đạo làm người ông muốn gửi gắm: hãy biết “giữ thiên lương cho lãnh vững”.
Đúng như lời nhận xét của Vũ Ngọc Phan: “ Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái đẹp là biểu hiện sinh động của một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân đặc Việt Nam từ quan niệm cho tới thực tế sáng tác”. Nhân vật Huân Cao trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là biểu hiện rõ nhất của một tâm hồn hết mình bám trụ với cái đẹp, dù có thể cận kề cái chết nhưng quyết không để cái đẹp bị nhúng tràm bẩn.
Mẫu bài phân tích số 2:
Nguyễn Tuân là một tác giả nổi bật trong nền văn học Việt Nam với những tác phẩm mang đậm dấu ấn tài hoa. Trong số đó, Chữ người tử tù là một tác phẩm tiêu biểu, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.
Nhân vật Huấn Cao là hình mẫu của người có phẩm cách cao quý, sống kiên cường và bất khuất. Mặc dù bị giam cầm, ông không hề sợ hãi trước quyền lực hay tiền bạc. Huấn Cao không chỉ là người chống lại triều đình phong kiến suy tàn mà còn là người kiên quyết giữ vững lý tưởng, dù phải đối diện với cái chết. Đến cuối đời, khi sắp phải lên đoạn đầu đài, ông vẫn giữ vững khí phách, chẳng bận tâm đến sự dày vò của những kẻ cầm quyền.
Huấn Cao không chỉ khinh bỉ cường quyền mà còn rất coi trọng thiên lương, phẩm hạnh của con người. Qua lời khuyên với viên quản ngục, Huấn Cao thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với những người có lương tâm trong xã hội, đồng thời cũng bày tỏ niềm lo lắng về việc bảo vệ thiên lương trong môi trường đầy cạm bẫy như ngục tù. Ông khuyên quản ngục nên quay về quê để giữ gìn sự trong sạch, tránh xa những tệ nạn của đời sống tù ngục.
Ngoài phẩm hạnh, Huấn Cao còn là người tài hoa, đặc biệt là tài viết chữ. Chữ của ông nổi tiếng với vẻ đẹp vuông vắn, thanh thoát, chỉ dành cho những người tri kỷ. Dù bị cầm tù, Huấn Cao vẫn không ngần ngại viết tặng chữ cho người quản ngục, coi đó là một hành động đẹp, một món quà thể hiện sự cảm thông và tri ân. Cảnh cho chữ trong tù, giữa không gian u ám, càng làm nổi bật vẻ đẹp tinh tế và cao quý của nghệ thuật, đồng thời nhấn mạnh rằng cái đẹp có thể sinh ra ngay cả từ những hoàn cảnh tăm tối nhất.
Tác phẩm Chữ người tử tù không chỉ làm nổi bật tài năng văn chương của Nguyễn Tuân mà còn phản ánh tư tưởng nhân văn sâu sắc của ông. Nhân vật Huấn Cao là hình mẫu của người có trách nhiệm với thời cuộc, giữ vững nhân cách và luôn khao khát làm sáng lên cái đẹp trong cuộc sống dù ở hoàn cảnh nào. Bài học về lòng kiên cường và tình yêu cái đẹp mà Huấn Cao truyền tải là một thông điệp mạnh mẽ về sự đấu tranh cho lý tưởng và phẩm hạnh trong cuộc sống.
Mẫu bài phân tích số 3:
Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân là tác phẩm viết về một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng. Trong Vang bóng một thời, truyện ngắn Chữ người tử tù có một giá trị lớn lao, nổi bật. Ai đã từng đọc Chữ người tử tù đều rung động cảm phục, sùng kính trước vẻ đẹp của người anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang, bất khuất, có tài, có tâm, mến mộ nghĩa khí. Đó là Huấn Cao. Huấn Cao là kết tinh, là hội tụ phẩm chất của một con người có nhân, dũng, trí. Ông là tập hợp của tất cả những gì tinh khiết nhất, cao đẹp nhất.
Là nhà văn “duy mỹ”, suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào những trang viết mang đến cho người đọc bao hình tượng đẹp. Tập truyện Vang bóng một thời có lẽ là nơi hội tụ những nét đẹp cao quý: thú uống trà đạo, thú chơi thư pháp, thả thơ, đánh thơ…Gắn liền với những thú chơi tao nhã ấy là những con người tài hoa bất đắc chí. Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân trích trong tập truyện ấy và Huấn Cao là nhân vật được ông miêu tả đặc sắc nhất. Đó là anh hùng thời loạn hội tụ những phẩm chất tài năng: khí phách hiên ngang – thiên lương trong sáng – tài hoa uyên bác. Huấn Cao là một nguyên mẫu lịch sử có thật của thế kỉ XIX, là hiện thân của võ tướng – người anh hùng của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, một nhà thơ, nhà thư pháp Cao Bá Quát lững lẫy một thời. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, nguyên mẫu lịch sử này đã tự nhiên đi vào trang văn và hiện lên lung linh sáng tỏa trên từng con chữ.
Sinh thời Cao Bá Quát có hai câu thơ sáng ngời nghĩa khí:
Thập cổ luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
(Mười năm lặn lội tìm gươm báu
Chỉ biết cúi đầu trước cành hoa mai)
Ngay từ đầu tác phẩm, Huấn Cao đã hiện lên như ánh hào quang phủ kín cả bầu trời tỉnh Sơn. Qua lời trò chuyện của quản ngục và thơ lại ta thấy tiếng tăm của Huấn Cao đã nổi như cồn. Điều làm cho bọn ngục quan phải kiêng nể không chỉ là tài viết chữ đẹp mà còn là “tài bẻ khóa, vượt ngục” của ông Huấn. Tuy nhiên, đây không phải là trò của bọn tiểu nhân vô lại đục tường khoét vách tầm thường mà là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng phu “Đỉnh thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông cùm xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ. Huấn Cao mang cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Những kẻ theo học đạo Nho thường thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng trung quân để rồi “dân luống chịu lầm than muôn phần” thì hóa ra là tội đồ của đất nước. Ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Bị triều đình phán xét là kẻ tử tù phản nghịch, tội xử chém, là “giặc cỏ” nhưng trong lòng nhân dân lao động chân chính ông lại là một anh hùng bất khuất, một kẻ ngang tàng “chọc trời khuấy nước” sống ngoài vòng cương tỏa, lững lẫy chẳng khác gì 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc ở Trung Hoa năm xưa. Tuy chí lớn của ông không thành nhưng ông vẫn hiên ngang bất khuất, lung linh sáng tỏa giữa cuộc đời.
Trước uy quyền của nhà lao, con người ấy càng sáng tỏa. Trò tiểu nhân thị oai, dọa dẫm của bọn tiểu lại giữ tù càng làm cho ông thêm phần ngang ngạo. Ông vẫn giữ thái độ bình thản, xem thường, dỗ gông, phủi rệp, hóm hỉnh đùa vui. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh đầu thang gông xuống đất đánh thuỳnh một cái” làm vỡ tan đi chốn trang nghiêm của chốn ngục tù. Đó là thái độ ngang tàng, bất chấp luật pháp của một xã hội dơ bẩn.
Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở trong tù bằng nghìn thu ở ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt” thì ông lại thản nhiên nhận rượu thịt và ăn uống no say coi như một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình. Chứng tỏ ông nào xem nhà tù là chốn ngục tăm tối mà chỉ xem nhà tù như một chốn dừng chân để nghỉ ngơi “Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù”.
Đối với quản ngục, Huấn Cao rất: lạnh lùng, khinh bạc xưng hô “ta – ngươi”, miệt thị hạ nhục “Ngươi bảo ta cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa là…” Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Có lẽ chính vì vậy mà khi nghe tin xử trảm: ông vẫn thản nhiên, không sợ hãi, chỉ khẽ mỉm cười, bất chấp cái chết, coi thường cái chết.
Bên cạnh dũng khí ngất trời của một bậc hảo hán, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của con người tài hoa. Ông có tài viết chữ đẹp. Trong thị hiếu thẩm mĩ của người xưa, ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý (Thư pháp). Chơi chữ đẹp là một thú chơi thanh tao. Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao do đó là biểu hiện của nét đẹp của văn hoá một thời. “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Đẹp đến mức người ta khát khao, ngưỡng vọng “có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”. Tuy nhiên, ông lại là người có ý thức giữ gìn cái đẹp, có lòng tự trọng: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Nỗi khổ của quản ngục là có Huấn Cao trong tay, dưới quyền mình nhưng lại không thể nào có được chữ ông Huấn. Quản ngục và Huấn Cao là hai con người ở hai thế giới cách biệt, đối lập nhau: Quản ngục đại diện cho thế lực nhà tù, nắm giữ pháp luật; Huấn Cao là kẻ tử tù. Huấn Cao là người sáng tạo cái đẹp; quản ngục là người yêu quý cái đẹp lại là người bị ông trời “chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã”. Trên bình diện xã hội họ là hai kẻ đối lập nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm tri kỷ. Tình huống truyện là ở chỗ ấy, cả hai kẻ lại gặp nhau trong cảnh éo le này.
Lúc hiểu được tấm lòng viên quản ngục: Ông Huấn “lặng nghĩ”, “mỉm cười”, ngạc nhiên “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài… thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Lời nói rất chân tình, xúc động. Điều này cho thấy Huấn Cao là một người hiên ngang, khí phách nhưng cũng rất có nghĩa khí. Không thể phụ một “thanh âm trong trẻo chen lẫn giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
Hai con người đồng nhất tỏa sáng trong đêm cho chữ “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân đã dồn hết bút lực của mình vào cảnh này. Nhà văn đã huy động vốn ngôn ngữ, tâm huyết và tài năng của mình dồn tụ lại trong một không khí cổ xưa hoành tráng của nghệ thuật thanh cao: VIẾT THƯ PHÁP.
Nhà văn dựng cảnh thật tài tình và đầy dụng ý nghệ thuật. Thủ pháp tương phản làm nên cảnh cho chữ bi tráng chưa từng thấy. Đó là sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng; giữa sự dơ bẩn của xã hội nhà tù và thiên lương trong sáng, khí phách rạng ngời. Tương phản giữa bó đuốc sáng rực trên vách nhà với đêm đen thăm thẳm; tương phản giữa vuông lụa trắng, thoi mực thơm và tường nhà, đất đầy mạng nhện, đầy phân chuột, phân gián. “Ở đây sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối cứ giằng co nhau quyết liệt. Bóng tối quánh đặc như muốn nuốt tươi ánh sáng. Nhưng không, ánh sáng ở đây vẫn ngời chói vẫn ngời tỏ, sáng rực, chứ không như ánh sáng leo lét, buồn rầu của ngọn đèn con chị Tý và ánh sáng rực tỏa, chói lọi như đoàn tàu rồi lại chìm vào hư không của bóng đêm trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Song xét sâu xa hơn thì ánh sáng đó không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa sắc màu vật lý mà ánh sáng đó mang sắc màu ý nghĩa nhân sinh đậm nét: ánh sáng của sự lương tri, của nhân tâm, của thiên lương trong sáng đã chiến thắng bóng tối của cường quyền, bạo lực. Sự chiến thắng đó là điều tất yếu sẽ xảy ra, bởi vì mọi cái thiện, cái cao cả, chính nghĩa cuối cùng sẽ chiến thắng. Với ánh sáng ấy đã cảm hóa con người một cách mạnh mẽ, nâng đỡ những con người có đức, mến mộ cái tài, nhưng yếu ớt trở về cuộc sống lương thiện… Sự chiến thắng đó là bản hùng ca, ca ngợi chữ tâm của con người thiên lương” (Lưu Thế Quyền)
Viết thư pháp là nơi thư phòng thư sảnh sạch sẽ thoáng mát, có hoa có nguyệt, có men rượu cay nồng. Nhưng khung cảnh thường thấy ấy lại không hiện diện nơi đây. Ở đây, sự dơ bẩn, phàm tục được hiện hữu rất rõ: “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Sự nhem nhuốc, phàm tục lên đỉnh điểm. Nhưng sự xuất hiện của phiến lụa, của thoi mực thơm đã xua tan đi mùi ô uế. Nhưng sự ô uế dần dần biến mất, bởi “Cái đẹp là địa hạt của sự sống, cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con người”. Vì thế dù “Cổ đeo gông chân vướng xiềng” nhưng ông Huấn vẫn tung hoành ngang dọc cái khát khao của đời mình lên từng vuông lụa trắng. Đó là thái độ uy nghi, đường hoàng, một thái độ của “hùm thiêng” khi đã “sa cơ” mà chẳng hèn chút nào. Thái độ ấy, đúng là “Thân thể ở trong lao – Tinh thần ở ngoài lao”. Người tù ấy đã ngự trị nơi bóng tối này với một dáng vóc uy nghi, lẫm liệt thật đường hoàng làm cho bọn quản lý nhà ngục phải khiếp sợ, kính nể: “viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” và “thầy thơ lại gầy gò run run bưng chậu mực”. Nét chữ của ông như rồng bay phượng múa, thiên lương của ông tỏa sáng lồng lộng chốn ngục tù. Tài hoa và thiên lương và khí phách đã hợp nhất thành Huấn Cao. Dũng và Mỹ hợp thể làm nên bức tranh cho chữ sáng ngời.
Kỳ lạ thay, trong cảnh cho chữ này, pháp luật và uy quyền của nhà tù đã bị sụp đổ. Uy quyền và bạo lực giờ đây đã tan biến, nó bị khuất phục bởi cái đẹp, cái thiên lương. Ở đó không còn tử tù và quản ngục, thơ lại. Ở đó chỉ còn những con người yêu quý và biết thưởng thức cái đẹp. Cái xấu xa, cái ác, cái chết chóc nhường chỗ cho cái đẹp, cái bất tử. “Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử”.
Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiên lương của con người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Lời khuyên của Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục cảm động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Câu nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” đã cho thấy rằng: cái đẹp, cái thiện, cái tài hoa đã chiến thắng tuyệt đối. Cái đẹp của nghệ thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách và ranh giới đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân – Thiện – Mỹ.
Thành công của Chữ người tử tù là ở cách tạo tình huống truyện độc đáo. Hai kẻ lúc đầu là đối lập, sau lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa sáng hào quang. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc thoại, khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội. Đúng như lời Vũ Ngọc Phan đã nói: “… văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”.
THAM KHẢO THÊM:



