Cô bé bán diêm sống trong sự thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần, thiếu đi tình yêu thương, bao bọc của những người thân trong gia đình. Sau đây mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết Phân tích nhân vật Cô bé bán diêm chọn lọc hay nhất để hiểu rõ hơn.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích nhân vật Cô bé bán diêm chọn lọc hay nhất
1.1. Dàn ý 1:
Mở bài:
– Giới thiệu khái quát tác giả An-đéc-xen, truyện ngắn “Cô bé bán diêm”
– Dẫn dắt đến nhân vật cô bé bán diêm: Là một em bé có hoàn cảnh bất hạnh
Thân bài:
* Phân tích hình tượng cô bé bán diêm trong truyện cùng tên của An-đéc-xen
– Khái quát gia cảnh của cô bé bán diêm: Bà và mẹ qua đời, sống với cha, thường xuyên bị đánh đập và bị hành hạ Nhà nghèo phải đi bán diêm kiếm tiền
– Cô bé bán diêm có số phận bất hạnh, chịu nhiều thiệt thòi: Chịu đói chịu lạnh suốt đêm giao thừa, có nhà cũng không dám về Sự vô cảm dửng dưng của mọi người xung quanh
– Cô bé bán diêm có niềm mong ước và khát khao cháy bỏng: Từng que diêm đều là niềm mong ước của em: Được no, được sưởi ấm, . .. Muốn đc đi với bà để thoát cảnh đói rét khổ sở.
– Cái chết của cô bé bán diêm: Phản ánh hiện thực xã hội Bày tỏ niềm thương cảm sâu nặng với những bi kịch trong cuộc sống
Kết bài: Khẳng định ý nghĩa hình tượng nhân vật cô bé bán diêm: Nhân vật cô bé bán diêm đã để lại trong lòng người đọc những hoài niệm, những suy tư day dứt về thân phận con người, khơi lên trong mỗi người lòng thương cảm với những mảnh đời bất hạnh trong xã hội.
1.2. Dàn ý 2:
Mở bài: Giới thiệu tác phẩm, tác giả và nhân vật Cô bé bán diêm: Trong những câu truyện cổ tích bất hủ của khó tàng văn học thế giới, không thể nào không kể đến truyện cổ tích “Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen. Nhân vật chính của câu truyện – nhân vật cô bé bán diêm đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bao thế hệ độc giả
Thân bài:
* Số phận, hoàn cảnh đáng thương, tội nghiệp:
– Cô bé đã từng có một gia đình khá giả, sung túc, nhưng khi mẹ mất sớm, rồi bà cô cũng mất, gia đình phá sản, v.v. – Không những không được ấm no, không được đi học như bạn bè đồng trang lứa, cô bé lại trở thành nơi để người cha say xỉn đánh đập, cứ mỗi lần say là ông ta lại đánh, đuổi đi
– Cô bị chính cha mình ép đi bán diêm để kiếm sống, ngay cả những đêm cuối năm, khi cả gia đình quây quần sum họp, nếu không mang đủ tiền về để ông đi mua rượu, cô sẽ phải nhận những trận đòn tàn khốc, bị xua đuổi một cách nhục nhã
– Trong đêm giao thừa giá rét, tuyết rơi trắng những con phố và cái lạnh cắt da cắt thịt, khi mà nhà nhà sáng rực ánh đèn và mùi hương của đồ ăn lan toả ra khắp ngõ ngách, cô bé phải đi bán diêm
– Những ngôi nhà sáng rực ánh đèn và toả ra mùi hương của thức ăn thơm lừng nhưng trái ngược với cảnh tượng ấy là những cô bé bán diêm vô cùng đáng yêu
– Quần áo cô mang là những miếng vá, đôi dép gỗ duy nhất đã bị mất, cô phải đi chân trần trên nền tuyết lạnh giá buốt
– Đi đến đâu, gặp ai cô cũng hỏi mua diêm nhưng không ai để ý hay động lòng mua cho cô một bó
– Giỏ diêm bị người ta xô phải nên rớt tung toé trên mặt đất, vì ẩm cô không bán được cho ai nữa
– Sợ sẽ bị cha đánh mắng, cô không dám về nhà mà ngồi nép ở góc tường nơi cuối phố, chịu đựng những cơn gió lạnh xé da thịt
* Ước mơ hạnh phúc cảm động:
Giữa hoàn cảnh thực đáng thương, cô chỉ còn lại một bó diêm để sưởi ấm
Những ước mơ về hạnh phúc được thể hiện qua những lần cô bé quẹt diêm
– Lần quẹt diêm thứ nhất:
+ Lần thứ nhất, diêm bén lửa rất nhanh, ngọn lửa lúc đầu xanh lam, sau nhạt hơn, trắng dần.
+ Trong ánh lửa hiện ra một lò sưởi lớn rực hồng và tấm áo
+ Em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có các hoạ tiết nổi bằng đồng tinh xảo.
+ Điều đó gắn với thực tại của cô bé: cô bé đang lạnh và muốn được sưởi ấm.
+ Nhưng khi que diêm tắt, lò sưởi vụt mất, niềm hi vọng cũng biến mất.
– Lần quẹt diêm thứ hai:
+ Khi que diêm thứ hai bén và sáng lại, cô bé thấy bàn tiệc thịnh soạn, thức ăn ngon miệng, hương thơm quyến rũ hoà lẫn
+ Mộng tưởng ấy cũng gắn với thực tế, cô bé đang đói trong khi ngoài phố thơm nức mùi ngỗng nướng, mấy đứa trẻ xung quanh đang quây quần bên bàn tiệc thịnh soạn của bố mẹ
+ Khi que diêm tắt hẳn cũng là lúc con quay trở về với thực tại đói lạnh cùng cực
– Lần quẹt diêm thứ ba:
+ Lần thứ ba quẹt diêm, cô bé thấy cây thông noel với cả ngàn ngọn nến lấp lánh, tô điểm bằng những bức ảnh tô màu sặc sỡ.
+ Cây thông trong đêm cuối năm cũng là biểu trưng của niềm vui trọn vẹn
+ Đây là ước mơ gắn với thực tế về không khí ngày đầu năm mới mà em đang hằng mong ước.
+ Nếu hai lần trước là những mong ước đơn giản – được ấm, được no thì lần này, khao khát được vươn lên trở thành niềm hạnh phúc – ước mơ mà bất kì đứa trẻ nào cũng phải khao khát
– Lần quẹt diêm thứ tư:
+ Lần thứ tư cô bé thấy người bà đã khuất đến với nụ cười trìu mến.
+ Điều này gắn với thực tế là em đang cô đơn khao khát được yêu, hạnh phúc
+ Có bà bên cạnh cũng chính là được sống, được vui, được yêu
– Lần quẹt diêm thứ năm:
+ Cuối cùng, cô quẹt nốt chỗ que diêm đã níu giữ chân bà, bà hiện lên thật to lớn xinh đẹp, hai bà cháu dắt tay nhau bay lên Thiên đường.
+ Đây là khoảnh khắc khao khát thành mong ước cao nhất, cháy bỏng nhất, khao khát được giải thoát, được lên Thiên đường nơi có bà, mẹ – người đã yêu em vô điều kiện. Ở nơi đó cũng không còn bệnh tật, đói lạnh.
– Thông điệp của tác giả:
Bày tỏ niềm đồng cảm, xót thương đối với các thân phận bé nhỏ đáng thương và gặp nhiều bất hạnh. Giây phút cô bé được giải thoát cũng là lúc cô bé rời xa cuộc đời
Phê phán một thực tế đau lòng: Người cha tàn nhẫn bạo hành chính đứa con của mình và một xã hội vô tâm, dửng dưng đối với những phận người bất hạnh.
Kết bài:
Nêu cảm nghĩ khái quát về nhân vật: Nhân vật cô bé bán diêm trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn An-đéc-xen có lẽ là một trong những nhân vật nổi bật và ấn tượng nhất trong lòng bao thế hệ bạn đọc trên thế giới. Không chỉ góp phần mang tới một câu truyện độc đáo, nhân vật cô bé bán diêm còn lưu lại trong lòng bạn đọc những dư âm sâu sắc về các giá trị nhân văn cùng thông điệp cuộc sống. Qua nhân vật, ta cũng thấy được phần nào tài năng cùng tấm lòng nhân ái của người cầm bút.
2. Phân tích nhân vật Cô bé bán diêm hay nhất:
An-đéc-xen là một tác giả danh tiếng với những câu chuyện dành cho trẻ em. Các tác phẩm của ông luôn để lại ấn tượng sâu sắc, mang đến những bài học quý giá cho các em nhỏ. Khi nhắc đến kho truyện của ông, không thể không kể đến câu chuyện về Cô bé bán diêm – một tác phẩm giàu giá trị nhân văn và ý nghĩa nhân bản.
Truyện kể về số phận đau buồn và khó khăn của cô bé bán diêm. Cô bé từng có một gia đình hạnh phúc và ấm cúng với một người bà hiền lành trong “ngôi nhà đẹp có dây thường xuân quấn quanh,” nhưng tất cả đều là quá khứ xa xôi. Người bà, người mẹ yêu thương của em lần lượt ra đi, để lại em sống cùng người bố trong cảnh nghèo khó, sống trong căn gác tối tăm và nhỏ nhẹo. Em phải đi bán diêm để kiếm sống.
Tác giả đã nhấn mạnh sự khốn cùng của em hơn nữa trong đêm giao thừa. Trên con đường đông lạnh giá, từng cơn gió thổi qua, cô bé bước đi, đầu trần, chân bước trên mặt đất, bụng rỗng và mang theo những phong diêm để bán. Em không dám trở về nhà, vì người cha nghiện rượu sẵn sàng trừng phạt nếu em không bán được gì. Em ngồi ở góc tường, hy vọng mọi người sẽ có lòng thương và mua cho mình.
An-đéc-xen đã tạo ra một chuỗi hình ảnh đối lập, nhấn mạnh tình cảnh đáng thương của cô bé: từ ngôi nhà dễ thương, đầy yêu thương trong quá khứ, hiện tại chỉ còn lại một mái nhà kỳ quái, nơi người cha hung hăng, thúc giục và đánh đập cô; mọi người vui vẻ trong ngôi nhà sáng sủa, trong khi cô bé đơn độc, chịu lạnh giá; mùi thơm của món ngỗng quay lan tỏa trong mỗi căn nhà hạnh phúc, trong khi cô bé phải chịu đói và cô đơn suốt ngày.
Tác giả sử dụng nghệ thuật đối lập để làm rõ thêm nỗi khốn khổ của cô bé. Cô bé không chỉ cảm thấy thiếu thốn về vật chất mà còn sống trong cảnh bị mọi người bỏ rơi, trong đó có cả bố – người đã sinh ra cô. Tác giả đã kết hợp một cách hài hòa giữa thực tế và mơ ước qua các lần quẹt diêm của cô bé.
Trong câu chuyện, cô bé đã quẹt diêm năm lần: lần đầu tiên, em thấy ngọn lửa ấm áp của chiếc lò sưởi, lần thứ hai là mùi thơm của ngỗng quay, lần thứ ba là cây thông, lần thứ tư là người bà, cuối cùng em đã quẹt hết những que diêm còn lại để giữ bà ở lại bên mình. Thứ tự này hoàn toàn hợp lý, đi từ vật chất đến tinh thần: em cần lò sưởi và ngỗng quay vì đang phải chịu đói, chịu lạnh; em cần cây thông và người bà vì chúng mang lại không khí gia đình ấm cúng, tràn đầy yêu thương.
Sự kết hợp giữa thực tế và mơ ước mang lại cho độc giả cảm xúc sâu sắc, động lòng trước số phận của cô bé. Những mơ ước của cô bé bắt nguồn từ thực tế khó khăn: em mơ về lò sưởi, bữa tiệc, cây thông,… bởi em phải sống trong hoàn cảnh khó khăn, đói nghèo. Em mơ về người bà vì khi bà ra đi, em luôn sống trong sự thiếu thốn yêu thương. Sau mỗi lần tắt diêm là thực tế khắc nghiệt lại tràn vào, làm cho số phận của cô bé trở nên thêm khốn khổ.
Vì vậy, em đã cố gắng quẹt những que diêm cuối cùng để níu kéo bà, để được sống trong yêu thương. Nhưng cô bé cũng hiểu rằng, chỉ cần que diêm tắt thì hình ảnh bà cũng sẽ mất đi, như tất cả những điều trước đó. Vì thế, em đã ước mơ có thể đi cùng bà mãi mãi. Nguyện vọng của em vừa phản ánh khao khát được sống trong yêu thương, vừa thể hiện số phận bi thương của cô bé nhỏ bé, đáng thương.
Sự ra đi của cô bé cũng vô cùng thương tâm, để lại ấn tượng sâu sắc cho độc giả. Buổi sáng đầu tiên của năm mới, mọi người ai cũng vui vẻ, rạng rỡ nhưng cô bé lại chết một mình ở xó tường, chết vì lạnh, vì lòng người vô cảm không ai quan tâm, giúp đỡ em.
Nhưng dù đã mất đi, đôi má cô bé vẫn còn hồng, đôi môi như đang mỉm cười, vì em đã được giải thoát khỏi cuộc sống đau khổ, được đến với người bà yêu thương của mình. Điều này thể hiện một cái kết có tính bi thương. Hạnh phúc với mỗi người chủ yếu nằm ở hiện thực, trong cuộc sống này, nhưng để được hưởng trọn vẹn, em phải đến với thế giới khác.
Tác phẩm được xây dựng với một cấu trúc phù hợp với sự phát triển của câu chuyện và tâm trạng của nhân vật. Sự đối lập và tương phản trong cốt truyện chỉ rõ hơn nỗi khốn khổ của cô bé: cô bé mồ côi, lang thang bán diêm trong bóng đêm, trái ngược với đường phố rực rỡ ánh đèn, nơi mọi người vui vẻ, hạnh phúc. Sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và ước mơ rõ ràng hơn cảm xúc của cô bé bán diêm.
Truyện “Cô bé bán diêm” thể hiện sự thương yêu sâu sắc của tác giả đối với những số phận khó khăn. Nó truyền đạt thông điệp ý nghĩa, mang trong đó giá trị nhân văn sâu sắc: hãy yêu thương trẻ em và để họ có cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc.
3. Phân tích nhân vật Cô bé bán diêm ý nghĩa nhất:
Ai đã từng đọc tác phẩm “Cô bé bán diêm” của nhà văn Đan Mạch Andersen chắc chắn sẽ không thể quên những ngọn lửa diêm nhỏ rực sáng giữa đêm giao thừa lạnh giá, tạo nên một thế giới mơ ước tuyệt đẹp của cô bé nghèo khó. Mặc dù kết cục của câu chuyện mang nhiều nỗi buồn, nhưng sức mạnh cuốn hút của những hình ảnh tuyệt vời vẫn đọng mãi trong tâm hồn của người đọc, người lắng nghe qua từng lời kể và sự mô tả hấp dẫn của Andersen.
Trong vùng tối tăm và rét buốt của xứ Đan Mạch, ta có thể nhìn thấy một cô bé, đôi môi màu tím nhạt, bụng đói kêu gào, từng bước chân trần lạnh leo trên con phố. Đó là hình ảnh của một đứa trẻ mồ côi, đau khổ, không dám trở về nhà vì sợ bị cha mắng mỏi tay. Nhà văn đã tạo nên một cảm giác sống động khi ông đưa người đọc vào tâm trí của cô bé.
Ấn tượng sâu đậm đầu tiên đến với ta là hình ảnh cô bé hiện lên giữa bóng tối trong thời điểm giao thừa. Khi “mọi ngôi nhà đều rực sáng đèn và mùi thơm của ngỗng quay lan tỏa trong phố,” cô bé đã hồi tưởng về quá khứ tươi đẹp khi bà của mình còn sống. Nhà nhỏ với những dây hoa thường xuân trong những ngày ấm áp hoàn toàn trái ngược với cuộc sống thực tại của hai cha con sống trong căn phòng tối tăm, sự nghèo khó đến nỗi gia tài đã tan rã. Để giảm bớt cảm giác lạnh lẽo, cô bé “ngồi nép vào góc tường,” “đặt chân vào người,” nhưng có lẽ nỗi sợ hãi hơn cả cái rét khiến cô bé “cảm thấy lạnh hơn.” Em không thể về vì biết “cha em sẽ đánh em.” “Ở nhà cũng không khác gì,” điều đáng sợ với cô bé không phải là thiếu điều ấm áp mà là thiếu điều thương yêu. Thật đáng thương khi cơ thể nhỏ bé của cô bé phải chống chọi với cảm giác lạnh từ bên ngoài và sự lạnh lùng từ bên trong khiến “đôi bàn tay của em đã đông cứng.”
Lúc đó, cô bé chỉ ao ước một điều nhỏ nhoi thôi: “Chắc quẹt một que diêm mà sưởi cũng đỡ rét một chút chứ?” Nhưng có vẻ cô bé không đủ dũng cảm, vì làm như vậy sẽ phá hỏng một que diêm không bán được. Tuy nhiên, cuối cùng, cô bé đã “quyết định quẹt một que,” bắt đầu một cuộc hành trình mơ ước vượt lên trên cuộc sống khắc nghiệt. Giấc mơ của cô bé bắt đầu từ khi cô nhìn vào ngọn lửa: “ban đầu màu xanh lam, dần biến mất, trắng sáng lên, rực hồng quanh que gỗ, thật sáng sủa và vui mắt.” Ánh sáng đó đã che mờ đi cảm giác bóng tối vô cùng, tạo nên hình ảnh “một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng lung linh.” Niềm vui của cô bé được thể hiện qua hình ảnh “lửa cháy vui mắt và toả ra hơi nóng dịu dàng.” Đó là một ước mơ đơn giản, nhưng thực tế lại phũ phàng: “tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vù vù… trong đêm đông rét buốt.” Uớc ao ngồi “trước một lò sưởi” cũng tan biến khi “lửa tắt, lò sưởi biến mất.” Khi em tưởng tượng ra những lời mắng chửi của cha, em cảm thấy “rùng mình.” Bóng tối tràn ngập tâm hồn em.
Có lẽ vì vậy, nhà văn đã để cô bé tiếp tục quẹt que diêm thứ hai, để cô bé tạo ra một niềm vui nhỏ nhoi dù chỉ trong mơ. Cô bé không chỉ phải đối mặt với cái rét, mà còn phải chịu đói suốt ngày. Vì thế, ánh sáng từ ngọn lửa diêm đã biến tấm rèm xám trở nên như “bằng vải màu.” Hạnh phúc trong ngôi nhà ấm áp đã đến với cô bé khi cô nhìn thấy: “Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay.” Nếu mọi thứ tưởng tượng trở thành hiện thực, em sẽ vui sướng biết bao, khi “ngỗng nhảy ra khỏi đĩa” sẽ mang đến cho em bữa ăn thịnh soạn để vượt qua những phút đói kinh khủng. Nhưng một lần nữa, ảo ảnh lại biến mất, em lại đối mặt với “phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xoá, gió bấc vi vu.” Không chỉ thế, em còn nhìn thấy sự thờ ơ và lạnh lùng của những người đi ngang qua, hình ảnh đó được nhà văn khắc họa rất rõ, khiến ta đau lòng trước cô bé bất hạnh.
Và một lần nữa, que diêm tiếp theo lại sáng bừng lên, để cô bé được sống trong những giấc mơ đẹp nhất của một đứa trẻ. Trong cuộc sống đầy khó khăn, em đã phải hy sinh đi những niềm vui của tuổi thơ. Ánh sáng từ que diêm đã biến tấm rèm xám xịt thành “tấm rèm bằng vải màu.” Cảnh ấm cúng trong ngôi nhà đã đến với em khi em nhìn thấy: “Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay.” Chỉ khi những hình ảnh tưởng tượng trở thành hiện thực, em mới cảm thấy hạnh phúc. Nhưng đó chỉ là ảo ảnh, như những ngôi sao trên trời mà em không thể chạm tay vào. Trái tim của ta như nghẹn lại với lời kể của nhà văn, vì cô bé đang mệt mỏi và sắp phải gục ngã trước cái rét của xứ sở bà chúa Tuyết.