Xét về nguồn gốc tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hòa và phát triển biện chứng tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh hoa tư tưởng phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng. Dưới đây là phân tích nguồn gốc lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh. Bài tập học kỳ môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Mục lục bài viết
1. Nguồn gốc từ giá trị truyền thống của dân tộc và văn hóa Việt Nam:
UNESSCO khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp của sự kết tinh truyền thống văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam”.
Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh dựng nước và giữ nước là truyền thống tư tưởng quý báu nhất, là nguồn gốc sức mạnh lớn nhất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Điều đó được phản ánh từ văn hóa dân gian đến văn hóa hiện đại, từ những nhân vật cổ tích như Thánh Gióng đến các anh hùng xa xưa như Bà Trưng, Bà Triệu hay thời phong kiến như Lê Lợi, Nguyễn Trãi,…
Chủ nghĩa yêu nước là văn hóa giá trị cao nhất,nó tạo thành cơ sở vững chắc để tiếp thu những giá trị tinh hoa văn hóa bên ngoài làm phong phú văn hóa dân tộc.
Tiếp đó là tinh thần nhân nghĩa ,truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái. Ngay từ buổi bình minh của dân tộc, các thế hệ Việt Nam đã răn dạy nhau:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Chẳng vậy mà sau ba mười năm bôn ba nước ngoài, năm 1941, khi vừ đặt chân về nước Bác Hồ đã nhắc nhở nhân dân ta: “Dân ta phải biết sử ta”. Sử ta dạy cho ta bài học: “Lúc nào dân ta đoàn kết như một thì nước nhà mới giành độc lập”. Người căn dặn: “Dân ta nên nhớ chữ đồng : đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”.
Truyền thống lạc quan, yêu đời của dân tộc ta được kết tinh qua hàng ngàn năm dân ta vượt qua muôn vạn khó khăn, gian khổ nhưng vẫn lạc quan tin tưởng vào tiền đồ dân tộc, tin tưởng vào chính mình.
Hồ Chí Minh là điểm kết tinh rực rỡ của truyền thống lạc quan.,yêu đời cảu dân tộc. Người đã tạo cho mình một sức mạnh phi thường vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Cuối cùng là nhân dân ta có truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh trong sản xuất, chiến dấu, đồng thời ham học hỏi và không ngừng đón tinh hoa nhân loại để làm giàu thêm tư tưởng văn hoa, cách mạng dân tộc.
2. Nguồn gốc từ tinh hoa văn hóa nhân loại:
Từ nhỏ Hồ Chí Minh đã được tiếp thu tinh hoa văn hóa Phương Đông. Lớn lên Người bôn ba khắp ba châu bốn biển, làm cho vốn hiểu biết văn hóa Đông – Tây của Người càng thêm uyên bác. Nói đến thái độ của mình đối với các học thuyết chính trị người viết: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức, cá nhân, tôn giáo Giesu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả, chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng, chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với nước ta. Khổng Tử, Mác, Giêsu, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay còn sống trên đời này, nếu họp lại một chỗ Tôi tin rằng họ nhất định sống với nhau vẫn hoàn mỹ như những người bạn thân thiết, Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”. Bên cạnh đó với tư tưởng văn hóa Phương Tây, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và tiếp thu tư tưởng văn hóa dân chủ và cách mạng của cách mạng Pháp, Mỹ. Về tưởng dân chủ của cách mạng Pháp, Người tiếp thu tư tưởng cảu các nhà khai sáng: Vônte, Rutxo, Mongtexkia. Đặc biệt Người chịu ảnh hưởng sâu sắc về tư tưởng tự do, bình đẳng của tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của đại cách mạng Pháp.Về tưởng dân chủ của cách mạng Mỹ, Người tiếp thu giá trị về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của tuyên ngôn độc lập 1776. Điều này thêt hiện ở những bài nói, bài viết của Người và cụ thể là bản tuyên ngôn độc lập đọc tịa quảng trường Ba Đình vào ngày 2/9/1945- Khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
3. Nguồn gốc từ phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh:
Trước hết ở Hồ Chí Minh có một tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu những tư tưởng, văn hóa cách mạng cả trong nước và trên thế giới. Như nhà báo Liên Xô Ô.Mandenxtam khi tiếp xúc với Hồ Chí Minh đã sớm nhận biết: “Từ Hồ Chí Minh tỏa ra một thứ văn hóa không phải Âu Châu mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”.
Sự khổ công học tập của Nguyễn Ái Quốc đã chiếm lĩnh được vốn tri thức của thời đại với kinh nghiệm đấu tranh của phong trào dân tộc- phong trào công nhân quốc tế để có thể tiếp cận được chủ nghĩa Mac-Lenin, khao học và kỹ thuật.
Cuối cùng phẩm chất chính hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh chính là tâm hồn của một nhà yêu nước, một người chiến sỹ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng những hy sinh vì độc lập của Tổ Quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.
4. Nguồn gốc Chủ nghĩa Mác-Lênin:
Chủ nghĩa Mác-Lenin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, là cơ sở hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của Hồ CHí Minh. Nhờ đó mà Người đã có bước phát triển về chất từ một người yêu nước trở thành một chiến sỹ Cộng Sản lỗi lạc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn.
Đối với chủ nghĩa Mac-Lenin, Hồ Chí Minh đã nắm vững cái cốt lõi, cái linh hồn sống của nó – đó chính là phương pháp biện chứng duy vật. Cũng trên cơ sở đó đã giúp Người tiếp thu và chuyển hóa những nhân tố tích cực, những giá trị và tinh hoa văn hóa của dân tộc và của nhân loại tạo nên tư tưởng của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử. Vì vậy trong qua trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Mac-Lenin có vai trò to lớn,là cơ sở, nguồn gốc quan trọng nhất.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Mac-Lenin đối với chúng ta- những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cẩm nang thần kỳ , không những là kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới Xã Hộ Chủ Nghĩa.
Chắc hẳn ta tự hỏi: “Vì sao chủ nghĩa Mác-Lenin là nguồn gốc quan trọng nhất hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh?”. Không phải là lần đầu tiên cũng không phải là học thuyết duy nhất Người đã tiếp cận. Trong qua trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu , nghiên cứu nhiều học thuyết , tư tưởng. Người đã so sánh, phân tích, đối chiếu và Người luận: “Bây giờ học thuyết nhiều, lý luận nhiều nhưng chỉ có chủ nghĩa Mac-Lenin là chân chính nhất, chắc chắn nhất và cách mạng nhất”.
Chủ nghĩa Mác-Lenin là học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, giai cấp tư sản ở các nước Tư bản Châu Âu để thiết lập chủ nghĩa Cộng Sản, giải phóng triệt để giai cấp, xã hội và con người. Chủ nghĩa Mác-Lenin là đúc kết và phát triển trí tuệ nhân loại để nhận thức quy luật vận động và phát triển của thế giới và để cải tạo thế giới phù hợp với quy luật củ nó. Lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mac-Lenin giúp con người tránh sai lầm, chủ quan trong nhận thức và giải quyết những vấn đề cuộc sống đặt ra. Chủ nghĩa Mác-Lênin là lý luận cách mạng tiên tiến nhất, nhân đạo nhất trong thời đại ngày nay. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Để đạt được mục tiêu cách mạng phải dựa vào lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của Người, chủ nghĩa Mac-Lenin luôn soi đường, chỉ lối cho từng bước đi của Người vì vậy Người luôn coi trọng nó.Theo Bác chủ nghĩa Mac-Lenin thực sự là “Mặt trời” soi sáng cho con đường cách mạng Việt Nam, là “Cẩm nang thần kỳ” để giải quyết các công việc cho đúng đắn.
Đối với chủ nghĩa Mác-Lenin Hồ Chí Minh đã nắm vững được phương pháp luận biện chứng duy vật, học tập lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mac-Lenin, Người đã tổng kết kinh nghiệm, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của đất nước để từ đó đưa cách mạng đi lên thắng lợi.Chủ nghĩ Mác-Lenin luôn được hiện diện trong cách nhìn biện chứng về mối quan hệ giữa hai thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: Cách mạng Việt Nam phải qua hai thời kỳ quan trọng, trước hết làm cách mạng dân tộc-dân chủ sau đó làm cách mạng XHCN để tiến tới chủ nghĩa Cộng Sản. Hai cuộc cách mạng ấy quan hệ khăng khít với nhau và phải do Đảng lãnh đạo.Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa phải xóa bỏ ách thống trị của đế quốc và phong kiến. Thực hiện độc lập dân chủ và dân tộc cho nhân dân. Ở thuộc địa kẻ thù nguy hiểm nhất là chủ nghĩa đế quốc nên nhiệm vụ chống đế quốc để giải phóng dân tộc phải đặt lên hàng đầu. Nếu không giành được độc lập cho dân tộc thì quyền lợi các giai cấp, các bộ phận nhân dân cũng không thực hiện được. Do lực lượng cách mạng có hạn nên nhiệm vụ chống phong kiến để giải quyết ruộng đất cho nhân dân. Phải thực hiện từng bước và phục vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc. Đó là quy luật chống đế quốc và phong kiến cảu cách mạng Việt Nam khác với các nước Tư Bản phát triển và cũng khác với chống đế quốc và phong kiến ở các nước thuộc địa khác.Quan điểm trên vừa thể hiện sự kế thừa vừa thể hiện sự sáng tạo của Hồ Chí Minh khi nhận thức vấn đề cách mạng dân tộc ở các thuộc địa cụ thể là ở Việt Nam.
Xuất phát từ lý luận Mác-Lênin và nguy vong giải phóng triệt để của nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng CNXH là một tất yếu lịch sử: “Con đường tiến tới CNXH của dân tộc là con đường chung của thời đại, của lịch sử không ai ngăn cản được”.