Trong truyền thống văn hóa của người Việt, việc chúc Tết là một thói quen mang ý nghĩa đặc biệt, khi năm mới đến, tất cả mọi người đều mong muốn những điều tốt lành cho nhau, họ chúc nhau sống lâu, khỏe mạnh, chúc nhau phát tài, phát lộc, chúc sự no đủ, sang già. Hãy phân tích một tác phẩm thơ trào phúng Năm mới chúc nhau.
Mục lục bài viết
1. Phân tích một tác phẩm thơ trào phúng Năm mới chúc nhau:
Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương, là một nhà thơ với danh tiếng không hề nhỏ. Tác phẩm của ông thường sẽ xoay quanh hai chủ đề chính đó trữ tình và trào phúng.
Trong truyền thống văn hóa của người Việt, việc chúc Tết là một thói quen mang ý nghĩa đặc biệt, khi năm mới đến, tất cả mọi người đều mong muốn những điều tốt lành cho nhau. Tuy nhiên, điều này không phải lúc nào cũng đúng khi mỗi chúng ta đối diện với một bài thơ đầy ẩn ý phê phán và châm biếm. Sự trái ngược giữa lời chúc và nội dung thực tế của bài thơ nổi lên qua các từ ngữ mỉa mai, những lời chế giễu sâu sắc. Tác giả đã châm biếm những người chúc Tết bằng cách là “tường thuật” lại những lời chúc đó:
“Ngồi yên mà nghe chúc nhau
Chúc nhau sống lâu trăm tuổi già
Lần này quyết định đi buôn đục
Thế gian cứ bao nhiêu kẻ lười biếng.”
Lời chúc “sống lâu trăm tuổi” ban đầu có vẻ là ý nghĩa nhưng dưới cái nhìn của tác giả, nó lại trở thành một lời châm chọc khi mà ông gọi những người chúc là “kẻ lười biếng”. Châm biếm tiếp tục được hiện diện trong câu “Lần này quyết định đi buôn đục” với ý muốn chỉ rằng những người này không có sự nghiêm túc ở trong cuộc sống.
Tính cách châm biếm của tác giả càng rõ ràng hơn qua việc thêm vào những chi tiết như là “mua quan bán tước”, một hành động phản ánh sự hư cấu của xã hội. Ông diễn đạt sự phẫn nộ về sự tham lam và hỗn loạn ở trong xã hội thông qua những lời như “Trăm ngàn vạn mớ để vào đâu?” và “Sinh năm đẻ bảy”.
Bằng cách này, tác giả không chỉ mô tả một hiện thực mà còn bày tỏ được quan điểm và tình cảm của mình. Tuy nhiên, thay vì chỉ đơn thuần là châm biếm, bài thơ còn đem lại được sự hài hước và sâu sắc. Điều này có thể thú vị khi đọc và cũng là nguồn cảm hứng để suy ngẫm về xã hội và con người.
2. Phân tích một tác phẩm thơ trào phúng Năm mới chúc nhau hay nhất:
Nhắc đến thơ ca Trung đại trào phúng mang đậm tiếng cười sâu cay, độc giả nhớ ngay đến Trần Tế Xương hay còn được gọi Tú Xương (1870 – 1907). Là người con quê Vị Xuyên, Nam Định, nhà thơ trào phúng nổi tiếng, cũng có lẽ là nhà thơ trào phúng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhà. Tiếng thơ trào lộng, châm biếm, đả kích của nhà thơ Tú Xương sở dĩ được nhiều người yêu thích vì có tính chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt) khi mà nhà thơ chứng kiến sự thay đổi, từ thời kì xã hội phong kiến tàn tạ sang thời kì xã hội thực dân lố lăng, dơ dáy, đầy rẫy những nghịch cảnh, cảnh và người với những bức tranh cuộc sống những chân dung con người, những quan hệ xã hội đáng chê cười. Một trong những bài thơ châm biếm, giễu cợt, khinh ghét lối sống lố lăng kệch cỡm của những kẻ giàu sang, những kẻ đang nhắm mắt làm ngơ trước cảnh đời nô lệ, dân chúng lầm than đó là thi phẩm “Năm mới chúc nhau” như là một tiếng chuông cảnh tỉnh, phê phán mà Tú Xương gióng lên bằng những tiếng cười trào lộng, sự đập phá dữ dằn, sự chê trách, sự đả kích phủ nhận triệt để của các vần thơ tả thực hướng vào nhiều đối tượng cụ thể, rất xác thực và nhiều cung bậc phong phú, đa dạng.
Vốn là một người thông minh, sáng dạ nhưng khốn nỗi thi cử bao nhiêu lần cũng không đậu. Nguyên nhân bởi vì xã hội thời bấy giờ đương buổi rối ren loạn lạc quá, cái tài năng của ông bị vùi dập bởi chế độ thuộc địa nửa phong kiến, bởi vì việc mua quan bán chức ầm ầm. Chính vì bất đắc chí trong việc học hành thi cử mà Trần Tế Xương thường trút hết nỗi niềm của chính mình vào thơ văn, thơ của ông không buồn mà là những tiếng cười mỉa mai châm biếm rất sâu cay, quất vào mặt bọn cường quyền, bọn thực dân những kể chẳng mấy ưa ông và ông cũng ngứa mắt bọn chúng.
Như thường lệ, cứ mỗi dịp Tết đến, người ta lại dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp. Họ chúc nhau sống lâu, khỏe mạnh, chúc nhau phát tài, phát lộc, chúc sự no đủ, sang giàu,… Vì thế lời chúc, vừa là một mong ước, một nguyện cầu, cũng vừa là một cách thức ứng xử mang tính văn hóa. Ấy thế mà có một số người dường như lại có ý tách ra, đứng ngoài những lời chúc kia, lẳng lặng nghe rồi bình phẩm, đánh giá và giễu cợt. Mới chỉ chạm đến nhan đề thơ thì nghe có vẻ rất đỗi bình thường, năm mới thì những lời chúc tụng nhau vốn dĩ là chuyện rất nên làm, là những gì rất đỗi quen thuộc nhất khi dịp tết đến xuân về. Nhưng vào thơ của Tú Xương, cái lời chúc tết ấy lại có nhiều điều làm phải suy nghĩ và khi nghĩ ra rồi người ta mới thấy được cái tiếng cười châm biếm thật sâu cay của “bậc thần thơ thánh chữ”.
Bước vào những luống thơ ẩn sâu từng câu chữ là tiếng chửi, tiếng mỉa mai những kẻ mà nhà thơ khinh ghét được gọi là “nó”. Đọc thơ người ta dễ dàng nhận ra sự mâu thuẫn hài hước giữa nội dung và hình thức, sao nghe câu chúc mà nó lại giống câu chửi quá, quả thực là nhà thơ đang chế giễu mấy tên hợm hĩnh lố bịch ấy.
“Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu
Phen này ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.”
Tú Xương tham gia vào bài thơ với vị trí là người thứ ba nghe chuyện, ông rất từ tốn và bình tĩnh “Lẳng lặng mà nghe”, để xem cái quân giả tạo, thối nát ấy chúc nhau như thế nào và rồi ông đã đưa lại vào thơ bằng một giọng tự sự đầy giễu cợt. Cớ sao đã chúc nhau “trăm tuổi bạc đầu” mà lại còn phải thêm chữ “râu” chi cho mất đi cái vẻ trang trọng mà thay vào đó là cái sự kém sang rành rành, bởi người ta thường chúc đầu bạc chứ chẳng ai chúc râu bạc bao giờ. Đã thế, Tú Xương còn hài hước chêm vào mấy câu tự xưng danh mình là “ông” xưng người là “thiên hạ”, một giọng thơ rất đanh đá, lại có phần hơi thách thức. Thế hóa ra bọn “nó” đã già đến bạc cả râu, thì chắc răng cũng chẳng còn đâu nhỉ, Tú cứ buôn cối giã trầu thì chắc sớm mà chả giàu to thôi. Này thì cái bọn chúc nhau mau già, mau rụng răng, thích chí lắm.
Ấy mới chỉ là những câu thơ mở đầu, ông Tú còn thể hiện cái sự căm ghét thói đời mà tiền đặt lên trên tất cả, đến những quan chức mà có tiền mua thì cũng xong:
“Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
Đứa thì mua tước, đứa mua quan
Phen này ông quyết đi buôn lọng
Vừa chửi vừa la cũng đắt hàng.”
Tú Xương nghe chúng nó chúc nhau sao sang quá, cái sang của bọn ngu dốt lại thích màu mè, chúng cứ tưởng chúng có cái chức quan mua được bằng những đồng tiền bóng lộn ấy trong cái xã hội nửa nạc nửa mỡ này là “sang” lắm, là ngon lắm. Nhưng chúng nào có biết được chúng chỉ như đang làm một trò hề trong mắt Tú, những kẻ đã kém cỏi từ tâm hồn đến trí tuệ ấy thì cho dù có đắp bao nhiêu là phục trang lộng lẫy, hay mũ cánh chuồn úp đầu cũng chẳng khiến cho người ta nể nang cho được. Bởi chúng chỉ giống như mấy con khỉ thích giả làm người bằng những bộ đồ đi vay đi mượn hoặc đi mua được. Quả thực có mấy ai thèm, trừ lũ trưởng giả thích học làm sang, thích tự bôi vẽ cái vẻ sang trọng, cái vẻ quyền quý, hài hước lên khuôn mặt bại hoại của chính bản thân mình. Câu thơ chốt hạ là “Vừa chửi vừa la cũng đắt hàng” của Tú Xương thật khiến cho người đọc được hả hê và phải bật cười bởi cái lũ kém sang ấy nào có biết đến việc ăn nói điềm tĩnh tử tế của bậc nho gia, chúng chỉ biết chửi, chỉ biết la như những kẻ đầu đường xó chợ. Thật hài hước sâu cay quá. Ôi đã có nhiều quan chức đến thế, thì Tú ta buôn lọng cũng khối tiền.
Nếu như hai lời chúc đầu là chúc sống lâu và sống sang thì đến với hai khổ thơ tiếp cùng chúc nhau “cái sự giàu” và “sự lắm con”.
“Nó lại mừng nhau cái sự giàu
Trăm nghìn vạn mớ để vào đâu
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc
Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu.
Nó lại mừng nhau sự lắm con
Sinh năm đẻ bẩy được vuông tròn
Phố phường chật hẹp người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non.”
Nhà thơ chế giễu mấy cái mừng, mừng sự giàu, mừng lắm con nhiều cháu. Tiền bạc mà vào miệng của Tú thì cũng như là “mớ” rau dưa, lộn xộn, để gà cũng ăn được. Rồi thì con cháu nhà quan lại mà cũng “sinh năm đẻ bảy” chẳng khác mấy với đám ô hợp. Ôi, theo cái dự đoán của Tú thì phen này chúng nó đẻ lắm chỉ để ăn sao cho cốt hết số tiền bẩn thỉu do chính bọn ông cha hám tiền của chúng làm ra. Riết rồi cái lũ sâu bọ ấy đông đúc quá, phố phường cũng chẳng kham nổi rồi lại phải bồng bế nhau lên núi mà ở thôi, chứ nơi nào chứa cho hết cái lũ chỉ quen bịp bợm của những người dân nghèo khó. Thái độ châm biếm của nhà thơ thể hiện ngay ở việc lặp lại những cụm từ “nó lại, “cái sự giàu” và “sự lắm con”. Cách diễn đạt theo kiểu ngoa ngôn như là “trăm ngàn vạn mớ” “sinh năm đẻ bảy” cũng là nhằm thể hiện thái độ mỉa mai, giễu cợt về sự ô hợp, sự lộn xộn của lũ người hợm của. Qua những lời bình luận ấy mà nhà thư thể hiện được rõ hơn thái độ và tình cảm của ông. Không hiểu sao đọc nhừng lời thơ dự đoán của nhà thơ về bọn đông con, lắm của, nào là “Phen này ắt hẳn gà ăn bạc – Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu” hoặc là “Phố phường chật hẹp người đông đúc – Bồng bế nhau lên nó ở non”, người đọc chỉ thấy buồn cười về một thực trạng khá nhố nhăng, một hiện thực đậm màu hài hước.
Trang thơ khép lại mà tiếng chuông cảnh tỉnh, phê phán ấy, thái độ thẳng thắn ấy, xét đến cùng, nó bắt nguồn từ một khao khát nhân bản: Làm sao để cho cuộc đời được tốt đẹp hơn, làm sao mà phải xóa sạch kiểu chúc Tết khác “giống người” mà chắc chắn, hơn một lần Tú Xương đã phải đau lòng chứng kiến.
Đọc thơ của Tú Xương, người ta thấy hiện lên rõ mồn một cái hiện thực oái oăm, hài hước của lũ người nhố nhăng ở trong cái xã hội tạp nham đủ thứ người, thứ chuyện, tưởng như đùa. Qua đó, người ta cũng thấy được cái cảnh cơ cực, khổ sở của những người dân thời bấy giờ, phải chịu sống dưới sự chèn ép của bọn người ô hợp, tức lắm, ghét lắm, mà không thể nào làm gì được. Tú Xương là người bản lĩnh, ông tuy bất đắc chí tại đường công danh nhưng thơ, văn của ông đã luôn đem lại một cái nhìn thật sâu sắc về hiện thực xã hội lúc đó, cũng phần nào xả được chính cái nỗi uất ức bị kìm kẹp dưới chế độ nửa phong kiến của nhân dân ta. Những tiếng cười chế giễu như là thứ vũ khí đâm thẳng vào mặt bọn cầm quyền ngu si, mà chúng tuy cay cú cũng chẳng thể làm gì được. Bài thơ đã mang lại cho bạn đọc một tình cảm hả hê, sung sướng, bõ hờn, bõ tức. Nó cũng gợi lên được nhiều cảm hứng khiến người đọc dễ “nhại” và muốn “nhại” theo cái giọng điệu trào phúng châm biếm của ông mỗi khi mà gặp cảnh chướng tai gai mắt ở đời. Vì vậy mà có người đã “bắt chước” làm thêm được mấy câu thơ nối tiếp vào bài thơ trên, đọc lên nghe chẳng khác gì là của chính nhà thơ, đây chính là bằng chứng hùng hồn về sức sống của hài thơ.
3. Phân tích một tác phẩm thơ trào phúng Năm mới chúc nhau ngắn gọn nhất:
Trong truyền thống văn hóa của người Việt, việc chúc nhau vào dịp năm mới là một thói quen đẹp lâu đời, thể hiện được sự tôn trọng và lòng tốt của mỗi người đối với người khác. Tuy nhiên, không phải lúc nào những lời chúc ấy cũng có mang tính chân thành như chúng ta nghĩ.
Bài thơ “Năm mới chúc nhau” của nhà thơ Trần Tế Xương thực ra không phải là một tác phẩm chúc mừng truyền thống như là tiêu đề ngụ ý. Thay vào đó, nó là một sự châm biếm sâu sắc, lồng ghép vào trong những lời chúc nhau nhưng lại mang tinh thần chế giễu và lời lẽ mỉa mai.
Tác giả đã thông qua việc nêu ra những lời chúc nhau nhưng thực ra là để chỉ trích, là để thể hiện được sự phẫn nộ và khinh bỉ. Bằng cách tả thực lại những lời chúc bằng cách lờ mờ đích danh và sử dụng ngôn từ châm biếm, nhà thơ đã lột tả được một thế giới xã hội đầy rẫy những cảm xúc tiêu cực những thái độ giả tạo và lòng tham vọng vô đáy.
Ví dụ, trong câu thơ “Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau/Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu”, nhà thơ không chỉ giữ lại được vẻ ngoài trang trọng của lời chúc mà còn lồng ghép vào đó là sự chế nhạo với hình ảnh của những người già đầy vẻ buồn cười và thiếu kiên nhẫn.
Sự châm biếm cũng xuất hiện rõ ràng trong việc đề cập đến việc mua quan bán tước, một thực tế rất đau lòng của xã hội khi địa vị xã hội được đánh giá bằng tài sản và quyền lực. Nhưng thay vì phê phán trực tiếp thì nhà thơ đã dùng lời văn hài hước để miêu tả và bày tỏ sự thất vọng về tình trạng đó.
Bằng cách này, bài thơ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị về mặt văn chương mà còn là một lời phê phán sâu sắc về cả xã hội và con người. Nó mở ra một cửa sổ để người đọc nhìn thấy những khía cạnh đen tối của cuộc sống xã hội, từ đó mà khơi gợi ra nhiều cảm xúc và suy ngẫm về bản chất của con người và xã hội mà chúng ta sống.
THAM KHẢO THÊM: