Phân tích đoạn cuối bài Tràng Giang của Huy Cận là tài liệu giúp các bạn học sinh lớp 11 tự học, đặc biệt là chuẩn bị bài ở nhà trước khi đến lớp. Từ đó đạt kết quả cao trong các bài kiểm tra và bài kiểm tra giữa học kì 2 môn Văn 11 sắp tới.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích khổ cuối của bài thơ Tràng Giang:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu khổ cuối bài thơ Tràng Giang
1.2. Thân bài:
1. Hai câu đầu: hình ảnh thiên nhiên mang màu sắc cổ điển
Hình ảnh mây, núi, gió được thể hiện rất rõ nét, nổi bật trong bài thơ
Hình ảnh tầng mây tượng trưng cho nỗi buồn của tác giả
Hình ảnh con chim lẻ loi, thể hiện nỗi buồn của tác giả sâu sắc hơn
Hình ảnh cánh chim không chỉ báo hiệu hoàng hôn mà còn thể hiện cái tôi cô đọng và thu nhỏ của tác giả.
2. Hai câu cuối:
Nhà thơ cảm thấy nhớ quê hương khi đứng trước cảnh thiên nhiên
Nỗi buồn của Huy Cận được thể hiện rất sâu sắc và nổi bật
Khát vọng vì cái tốt, cái đẹp của quê hương, cống hiến cho quê hương, đất nước.
1.3. Kết bài:
Nêu cảm nghĩ của em về khổ cuối bài thơ Tràng Giang
2. Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng Giang hay nhất:
Nhà thơ Huy Cận có nhiều tác phẩm tả cảnh thiên nhiên nhớ quê hương, trong đó bài thơ “Tràng Giang” là tiếng nói nỗi lòng chung của cái tôi cá nhân trong phong trào Thơ mới. Đặc biệt khổ thơ cuối bài thơ “Tràng Giang” thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn bã khi nhớ nhà của tác giả:
Huy Cận đã vẽ lên trong tâm hồn mình một vẻ đẹp vừa hoài cổ vừa hiện đại:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.”
Tác giả đã sử dụng tính từ “lớp lớp” để miêu tả rõ hình ảnh từng lớp mây như dát bạc cả một vùng trời. Câu thơ sử dụng phép so sánh ẩn dụ và ngắt câu với “mây cao đùn núi bạc” tạo thành “tầng lớp” khiến ta hình dung mây trong nắng như dát bạc. Hình ảnh cổ điển và thơ mộng hơn được lấy cảm hứng từ một tác phẩm cổ của nhà thơ Đỗ Phủ:
Để tô điểm cho vẻ đẹp thiên nhiên, tác giả đã so sánh mây trắng với “bạc”, từ “đùn” làm cho mây vận động bằng nội lực tạo thành núi bạc. Và nét hiện đại được thể hiện rõ nét hơn qua dấu hai chấm ở câu thơ sau gợi mối liên hệ giữa cánh chim và bóng chiều.
Mây trời bao la, cùng với tiếng chim nghiêng ngả, không phải là nghiêng bình thường mà là “chú chim nhỏ” trong buổi hoàng hôn. Bóng chiều trĩu nặng cánh chim nhỏ, đổ bóng xuống mặt nước khiến ai cũng nghiêng ngả. “Cánh chim” và “bóng chiều” là những hình ảnh trong thơ cổ điển.
Nếu như lời của Bà Huyện Thanh Quan, Lý Bạch… cánh chim chỉ là lời cảnh báo về buổi chiều tà thì ở thơ Huy Cận, đó là nỗi cô đơn trước cuộc đời.
Nhà thơ bộc lộ một cách nhìn mới ở hai câu kết:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà ”
Hai câu thơ xuất phát từ thơ của Thôi Hiệu trong tác phẩm “ Hoàng Hạc Lâu ” :
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thươngh sử nhân sầu ”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai )
Thôi Hiếu nhìn hương khói nhớ quá khứ, quê hương, nơi chôn rau cắt rốn. Nỗi sầu xa xưa. Còn Huy Cận tuy ở quê nhưng lòng vẫn nhớ nhà da diết. Nhớ nhà có thể hiểu là nỗi nhớ đất nước mất chủ quyền, nỗi buồn thời cuộc. Lòng quê ở đây nói lên nỗi nhớ quê hương với hai từ “gợn sóng” cho ta thấy bóng con sóng kề bên, con sóng cũng nhớ hay tác giả đang nghĩ về quê hương? Sự lên xuống của sóng hay nỗi nhớ của nhà thơ không chỉ diễn ra một lần mà liên tục. Bài thơ muốn nói lên nỗi nhớ quê hương thanh bình, tự tại của tác giả khi được sống trong cảnh sông nước.
“Hoàng hôn không khói cũng nhớ nhà”
Nhà thơ mượn từ khói trong thơ Thôi Hiệu để nói lên cảm xúc của mình. Nếu như nhà thơ nhìn khói nhớ nhà thì nhà thơ Huy Cận không “khói” vẫn nhớ quê hương nơi chôn rau cắt rốn. Tôi lớn lên. Huy Cận lại buồn trước cảnh vắng vẻ, sóng “gợn sóng” nhớ quê hương mà chỉ thấy hư vô, một mình Huy Cận đối diện với cảnh hoang vắng. Vì vậy, khát vọng được yêu thương, được gắn bó với cuộc đời là khát vọng của tác giả.
Bằng phép so sánh tài tình và miêu tả tài tình, nhà thơ Huy Cận đã thể hiện rõ nét nỗi buồn nhớ quê hương da diết của tác giả. Nỗi nhớ da diết hơn khi đứng ngay trên quê hương, nhưng quê hương không còn mà trong cảnh nước mất nhà tan.
3. Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng Giang ấn tượng nhất:
Thơ Huy Cận mang nhiều nỗi buồn về cảnh vật, thế sự. Nỗi buồn của người dân về quê hương. Bài thơ Tràng Giang là nơi tác giả bày tỏ rất nhiều tình cảm với quê hương đất nước. Khổ thơ cuối thể hiện nỗi niềm của nhà thơ với thế sự.
Ở ba khổ thơ đầu, nhà thơ đã sử dụng bút pháp ngụ ngôn để tả cảnh ngụ tình. Nói về người thấp cổ bé họng. Ở khổ thơ cuối, ông hòa trộn nỗi cô đơn và nỗi nhớ quê hương lên một mức độ cao hơn của thiên nhiên.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”.
“Mây cao đùn núi bạc” tưởng chừng như giản dị nhưng lại khiến người đọc choáng ngợp. Họ choáng ngợp trước hình ảnh mây núi nơi đây. “Lớp lớp” là từ gợi tả cảm giác mây dày lên, màu mây núi có một màu bàng bạc huyền ảo. Ở bài thơ này, tác giả cũng lấy cảm hứng từ thơ Đỗ Phủ.
“Đùn” và “lớp lớp” là những cụm từ làm cho không gian có vẻ rộng hơn. Điều này khiến nhân vật trữ tình vốn đã cô đơn lại càng trở nên nhỏ bé trước thiên nhiên rộng lớn. Hình ảnh trên cũng là một khối để người đọc liên tưởng đến nỗi buồn trong lòng tác giả. Từng cái một xếp chồng lên nhau.
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Giữa sự bao la của thiên nhiên. Hình ảnh chú chim nhỏ tung cánh bay ngang hiện ra. Hai câu cuối bài thơ thể hiện nỗi nhớ da diết của nhà thơ. “Dợn dợn” là một từ anh ấy tự nghĩ ra. Hai thanh nặng hiện lên như nỗi buồn của nhà thơ đang đi vào hố sâu tuyệt vọng. Nó như gợn buồn trong lòng tác giả.
Câu thơ cuối Tràng Giang lấy cảm từ thơ Thôi Hiệu. Đối với tác giả, tình yêu quê hương luôn thường trực. Không cần bất kỳ chất xúc tác nào để hành động.
4. Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng Giang đạt điểm cao:
Nhắc đến Huy Cận là nhắc đến một hồn thơ đa cảm, trong thơ ông luôn chất chứa nỗi niềm của một bậc anh hùng, nỗi sầu nhân thế. Một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách của ông là bài “Tràng Giang” viết vào mùa thu năm 1939. Khổ cuối của bài thơ “Tràng Giang” là khổ hay nhất của bài thơ, thể hiện nỗi buồn man mác trước cảnh hoàng hôn hãi hùng của nhà thơ:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Trong khoảng mênh mông vô tận của đất trời, nhà thơ Huy Cận không tìm được một tiếng nói đồng cảm, không ai hiểu được tâm trạng buồn tủi ẩn chứa trong tâm hồn nhà thơ. Nỗi buồn, nỗi buồn không thể bày tỏ, chỉ có thể giữ cho riêng mình nên càng đau đớn, dằn vặt trước không gian bao la trước mắt.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.”
Các hình ảnh cổ điển “mây”, “cánh chim” được tác giả sử dụng kết hợp với các động từ “đùn”, “nghiêng”, “sa” để diễn tả vẻ hùng vĩ, sức sống tràn trề của thiên nhiên. Những “lớp” mây xếp chồng lên nhau tạo nên những ngọn núi bạc khổng lồ, lơ lửng giữa trời xanh. Tuy vậy nhưng cảnh tượng đó không thể nào che giấu hết nỗi cơ đơn vô tận của nhà thơ Huy Cận. Ngược lại càng nhìn không gian tác giả lại càng thấy cuộc đời hiu quạnh.
Có thể nói lòng yêu nước là tình cảm đáng trân trọng của nhà thơ đối với quê hương, đất nước. Thôi Hiếu cũng đã một lần nhìn khói sóng trên sông mà nhớ nhà:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”
Hay Lí Bạch từng nhìn trăng mà nhớ quê hương da diết:
“Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.”
Người xa quê nhớ quê, nhưng với Huy Cận thì khác, tác giả đứng ở quê mà nhớ quê da diết:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Từ đùn đùn lên sự vận động diễn ra liên tục trong tâm trí nhà thơ, một nỗi nhớ luôn cồn cào, đau đáu, ám ảnh. Dường như không lúc nào nhà thơ không nhớ quê hương, nhất là trong cảnh đất nước đang bị quân thù xâm lược, giày xéo.
Có thể nói, khổ thơ cuối bài thơ vẽ nên một bức tranh đẹp nhưng buồn. Ẩn sâu trong từng câu chữ là một cái tôi thơ cô đơn chất chứa tình cảm sâu nặng, thiết tha với quê hương, đất nước.