Bếp lửa là bài thơ được sáng tác năm 1963 khi tác giả đang du học ở Liên Xô. Bài thơ chia làm 4 phần và thể hiện mạch cảm xúc từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Hình ảnh bếp lửa và người bà làm nổi lên nỗi nhớ về kỷ niệm thơ ấu và tình yêu thương, chăm sóc của bà.
Mục lục bài viết
1. Phân tích khổ 5, 6 bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt hay nhất:
Bếp lửa sưởi ấm một đời. Trong thời kỳ chiến tranh, nhiều người đã rời xa gia đình để gia nhập quân đội và hy sinh cho đất nước. Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ mà bố mẹ ông đều tham gia chiến đấu. Ông sống với bà và rất tự hào vì được sống bên bà. Ông đã viết bài thơ “Bếp lửa” để thể hiện tình cảm của mình dành cho bà và khẳng định rằng bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm gia đình mà còn mang lại sự ấm áp suốt đời.
Bài thơ đã khơi dậy trong chúng ta tình cảm đẹp đối với gia đình và những kỷ niệm ngọt ngào của tuổi thơ. “Bếp lửa” của nhà thơ Bằng Việt đã đưa chúng ta vào cuộc sống và kỷ niệm của ông. Những hình ảnh “Bếp lửa” và “người bà” luôn toả sáng trong tiềm thức của tác giả – trở thành một nơi để trở về trong kỷ niệm:
Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Trong kỉ niệm, lí trí nhường chỗ cho tình cảm và cái rõ ràng nhòe đi để thêm những hồi ức mơ màng, chập chờn. Hình ảnh bếp lửa qua tâm trạng ấy đồng nhất, hoà quyện. Dòng hồi tưởng nhẹ nhàng tươi mát của cháu kết nối đứa cháu phương xa gửi tình thương nỗi nhớ về bà, về quê hương. Bếp lửa của củi rơm không còn là bếp lửa bình thường như trước. Nó trở thành một hình ảnh xuất hiện trong bài thơ, trong tâm trí cháu và luôn gắn với hình ảnh người bà đáng yêu. Và vì lẽ đó, người ta cảm giác bếp lửa đó chính là tình cảm của người bà đôn hậu:
Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Tình cảm của bà được tượng trưng bằng “ngọn lửa”. “Ngọn lửa” thể hiện linh hồn và tình cảm của bà. Ngọn lửa đó có thể là tâm huyết, nhiệt huyết và tình yêu của bà. Từ “Bếp lửa” đến “ngọn lửa” là hành trình từ cái đơn giản đến cái cao cả, từ cái vật chất đến cái tinh thần. Hình ảnh ngọn lửa thể hiện ánh sáng, hơi ấm và sự sống. Bà luôn mang trong lòng ngọn lửa của tình yêu thương, niềm tin và ý chí. Điệp ngữ “một ngọn lửa” nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu. Ngọn lửa trong lòng bà là biểu hiện của sức sống vĩnh cửu và niềm tin, ý chí, nghị lực mà bà truyền đạt cho chúng ta. Đó là ý chí, nghị lực và niềm tin của cả một dân tộc trong thời kỳ lịch sử khó khăn. Hình ảnh của bà không chỉ là người thắp lửa mà còn là người truyền lửa. Lửa ấy là lửa niềm tin và sức sống truyền đến các thế hệ sau này:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.
Cuộc đời bà là một cuộc sống đầy gian truân, vất vả và nhiều lận đận, trải qua nhiều khó khăn. Hình ảnh của bà cũng tượng trưng cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh. Bà đã dành cả cuộc đời để chăm sóc gia đình, vượt qua mọi khó khăn. Bà không chỉ chăm sóc gia đình bằng đôi bàn tay già nua, mà còn bằng tấm lòng yêu thương của bà dành cho con cháu. Từ “nhóm” được nhắc lại 4 lần trong 4 câu thơ, thể hiện hành động chăm sóc gia đình của bà. Đó là nhóm bếp lửa để sưởi ấm cho gia đình qua cái lạnh buốt của sương sớm; nhóm bếp luộc khoai, luộc sắn để ăn đỡ đói và cho con cháu cảm nhận tình yêu thương của bà; nhóm xôi gạo để chia sẻ niềm vui và tình cảm với xóm làng; và cuối cùng là nhóm dậy tâm tình tuổi nhỏ. Tình cảm của bà rộng lớn như khoai sắn và đậm đà như khoai sắn. Các từ ngữ “yêu thương”, “ngọt bùi”, “chung vui” thể hiện sự tinh luyện của ngòi bút nghệ thuật, diễn tả tình thương, niềm vui, sự no ấm và hạnh phúc mà bà đã mang lại cho con cháu. Bà đã nuôi dưỡng và làm bừng sáng những ước mơ, khát vọng của đàn cháu nhỏ. Bếp lửa của bà đã nhóm lên ngọn lửa của tình thương ấm áp. Chính bởi vậy, nhà thơ đã cảm nhận được sự đặc biệt và thiêng liêng trong hình ảnh bếp lửa bình dị:
“ÔI! Kì lạ và thiêng liêng – Bếp lửa”.
Câu thơ đảo ngữ thể hiện sự ngạc nhiên, khám phá kỳ diệu trong cuộc sống. Bà với ngọn lửa của mình truyền niềm tin về ngày mai và hiểu được tinh thần của một dân tộc gian lao và tình nghĩa. Từ ngọn lửa ấy, cháu cảm nhận được “niềm tin dai dẳng” và linh hồn của dân tộc. Đó là ngọn lửa trong trái tim, chứa đựng niềm tin và sức sống của con người.
Bài thơ nói về ý nghĩa quan trọng của tuổi thơ, là nguồn sáng trong cuộc sống. Tình yêu và lòng biết ơn đối với bà là biểu hiện của tình yêu gia đình, quê hương và cả tình yêu đất nước. Bằng Việt sử dụng hình ảnh bếp lửa để miêu tả và biểu đạt cảm xúc. Thể thơ tám chữ phù hợp với những kỷ niệm và suy ngẫm. Bài thơ như ngọn lửa ấm áp và sáng trong lòng người đọc.
2. Phân tích khổ 5, 6 bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt ngắn gọn nhất:
2.1. Phân tích mở bài:
Tuổi thơ của mỗi người đều ấn tượng, như hình ảnh người mẹ ru, người cha dạy. Với tác giả Bằng Việt, đó là hình ảnh người bà và bếp lửa thiêng thiêng. Ký ức tuổi thơ, tình cảm kính yêu của cháu dành cho bà được thể hiện trong bài thơ Bếp lửa. Sáng tác năm 1963 khi tác giả du học tại Nga. Bài thơ có nhiều khổ, trong đó hai khổ thơ cuối phản ánh chi tiết cảm xúc và tình yêu của cháu dành cho bà – ngọn lửa sáng rực trong tim:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm.
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa !”
Bếp lửa được sáng tác năm 1963 khi tác giả đang du học ở Liên Xô. Bài thơ chia thành 4 phần, mang đến cảm xúc từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Thông qua hình ảnh bếp lửa quê hương và người bà, tác giả thể hiện sự nhớ về tuổi thơ và tình yêu thương, chăm sóc của bà. Đồng thời, tác giả cũng biểu lộ lòng biết ơn và tôn trọng đối với người bà, gia đình và quê hương. Đoạn thơ trên nằm ở khổ 5 và 6, làm tái hiện những kỉ niệm đáng nhớ của bà và cháu.
2.2. Phân tích thân bài:
a/ Luận điểm 1: Suy ngẫm về cuộc đời bà (Khổ 5)
Sau khi đọc những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình, người cháu tiếp tục suy ngẫm và chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa. Trong những khoảnh khắc ấy, người cháu cảm nhận được sự ấm áp, hồn nhiên và tình yêu thương mà bà dành cho gia đình. Nhưng đồng thời, người cháu cũng nhận thấy sự đau khổ, nỗi cô đơn và những khó khăn mà bà đã trải qua trong cuộc sống. Đó là những thước phim tuyệt đẹp về một người phụ nữ mạnh mẽ và kiên cường, người đã gắn bó với gia đình và giữ vững tình yêu và sự quan tâm dành cho mọi người xung quanh.
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Từ hình ảnh bếp lửa trước đó, tác giả chuyển sang hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà. Bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu củi rơm, mà còn được nhen lên từ ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương và niềm tin vô cùng bền bỉ. Ngọn lửa là những kỉ niệm ấm lòng, niềm tin kì diệu nâng bước cháu trên hành trình dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương và niềm tin mà bà truyền cho cháu. Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ chỉ thời gian và các động từ đã khẳng định ý chí và bản lĩnh sống của bà, cũng như của người phụ nữ Việt Nam trong thời chiến. Điệp ngữ và kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ và tự hào. “Ngọn lửa” là sự sáng tạo nghệ thuật đắt giá của tác giả, nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng và tình yêu thương của người bà. Ngọn lửa hiện thân cho tâm hồn và nghị lực sống phi thường của người bà. Bà không chỉ là người nhóm lửa và giữ lửa, mà còn là người truyền lửa cho người cháu và thế hệ sau. Bà tin rằng cháu mình sau này sẽ trở thành người có tài và đóng góp cho đất nước.
b/ Luận điểm 2: Sự tần tảo, hy sinh của bà (Khổ 6)
Từ những hoài niệm về tuổi thơ và bà, người cháu suy ngẫm về cuộc đời, về lẽ sống của bà. Bà là một người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh và giàu lòng nhân ái. Mỗi khi nhìn lại quá trình sống của bà, cháu không khỏi ngưỡng mộ sự kiên trì và sự hy sinh của bà để mang lại hạnh phúc cho gia đình và những người xung quanh. Bà không chỉ là một người phụ nữ đáng kính, mà còn là một người dẫn dắt, truyền cảm hứng cho chúng ta trong cuộc sống. Cháu hy vọng sẽ học được nhiều điều từ bà và truyền lại những giá trị đó cho thế hệ sau này:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và tiêng liêng – bếp lửa!”
Nhà thơ đã gói ghém cuộc đời bà trong một câu thơ đảo ngữ: “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”. Bốn chữ “lận đận đời bà” và cụm từ “biết mấy nắng mưa” thể hiện sự dài dặc của thời gian, sự vất vả và khổ cực trong một đời. Bà đã vượt qua mọi khó khăn để trở thành nguồn hỗ trợ cho con cháu. Cuộc đời bà đầy gian truân, vất vả và nhiều lần trải qua nắng mưa. Hình ảnh của bà cũng là hình ảnh của nhiều phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh nhưng vẫn tỏa sáng tình yêu thương. Qua nhiều năm, bà vẫn không ngừng làm việc. Bà vẫn dậy sớm và đốt lửa bếp, giữ trọn tình yêu thương dành cho con cháu trong suốt nhiều chục năm qua. Từ “nhóm” được lặp lại nhiều lần trong khổ thơ để khẳng định vai trò của bà là nguồn lửa yêu thương và đức hy sinh. Bằng cách nhóm lửa ấm áp, bà đã dạy cháu yêu thương những người thân. Bằng cách nhóm lửa quê hương, bà dạy cháu yêu quê nghèo. Bằng cách nhóm lửa xôi gạo mới, bà dạy cháu mở lòng với mọi người xung quanh và không quên những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã trải qua. Bếp lửa của bà là nơi nuôi dưỡng cháu lớn lên. Dù cháu đã đi du học xa xôi, xa bà, xa quê hương, nhưng bà vẫn luôn ở bên cháu, hỗ trợ cháu từng bước đi. Tất cả những thành công của cháu ngày hôm nay đều nhờ ngọn lửa trong bà, ngọn lửa đó đã giúp cháu tự tin bay cao trong cuộc sống.
Từ bếp lửa của bà, cháu đã khám phá những ý nghĩa kỳ diệu và cao cả. Cháu rất sung sướng và háo hức:
“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Từ xa xưa, cháu luôn nhớ bà với niềm xúc động mãnh liệt. Câu thơ “Bếp lửa” đã lan tỏa sức mạnh diệu kỳ, tượng trưng cho tình yêu và sự thiêng liêng của bà. Bếp lửa và bà như hóa thân thành một, luôn rực cháy và bất tử. Cháu nhớ bà, nhớ bếp lửa cũng như nhớ quê hương với lòng tri ân sâu nặng. Dù sống ở xa quê hương và có cuộc sống giàu sang hơn, hình ảnh bà vẫn mãi khắc sâu trong tâm hồn tác giả. Đây cũng là khởi đầu của tình yêu đất nước và con người Việt Nam.
3. Đánh giá, mở rộng
Đoạn thơ tuyền chất, linh hoạt, kết hợp giữa biểu cảm, miêu tả và triết lí sâu sắc. Sử dụng phép đảo ngữ và điệp từ hiệu quả để tăng thêm xúc cảm và biểu lộ tình cảm chân thực của tác giả. Thành công của đoạn thơ còn nằm ở sự sáng tạo và ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh bếp lửa và ngọn lửa, tượng trưng cho tình yêu vô bờ bến của bà dành cho người cháu. Đó cũng là người bà trong “Tiếng gà trưa” của nữ sĩ Xuân Quỳnh, một hình ảnh đậm chất truyền thống anh hùng của phụ nữ Việt Nam. Kết thúc bài thơ, hình ảnh người bà vẫn tỏa sáng, gợi lên tình cảm yêu mến, kính phục và lòng biết ơn sâu sắc trong lòng người đọc.
2.3. Phân tích kết bài:
Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, đoạn trích giúp ta hiểu rõ hơn về hình ảnh người bà cũng như những phẩm chất thiêng liêng cao quý của người phụ nữ Việt. Bà là một biểu tượng vĩ đại trong lòng người cháu, mang đến niềm tin và sự khích lệ mạnh mẽ. Bà luôn là nguồn cảm hứng bất tận và nguồn động lực để chúng ta vươn lên trong cuộc sống. Gấp trang sách lại, lòng ta tràn đầy những cảm xúc tuyệt vời: tình yêu cháy bỏng dành cho bà, tình yêu sâu sắc dành cho gia đình và tình yêu mãnh liệt dành cho quê hương đất nước. Mỗi lời thơ của Bằng Việt khiến ta ngập tràn trong cái khát khao mãnh liệt về quê hương: “Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ không thể trưởng thành thành người” (Đỗ Trung Quân). Với những suy ngẫm đó, ta nhận ra rằng quê hương không chỉ là nơi chúng ta sinh ra mà còn là hạt giống nuôi dưỡng tâm hồn và định hình nhân cách của chúng ta. Quê hương là nguồn năng lượng vô tận, là nguồn động lực để chúng ta vượt qua khó khăn và khám phá tiềm năng bản thân.
3. Phân tích khổ 5, 6 bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt điểm cao:
Tuổi thơ của mỗi người đều ghi lại những kỷ niệm đáng quý, như hình ảnh người mẹ ru con ngọt ngào, người cha dạy bảo sâu sắc… Với tác giả Bằng Việt, hình ảnh của người bà và bếp lửa thiêng liêng luôn hiện hữu trong ký ức tuổi thơ. Bài thơ Bếp lửa, viết năm 1963 khi tác giả đang du học tại Nga, thể hiện tình cảm kính yêu và sâu sắc của cháu dành cho bà.
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm.
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa !”
Người cháu (Bằng Việt) cũng thể hiện sự biết ơn, kính trọng đối với bà, gia đình và quê hương. Đoạn thơ trên nằm ở khổ 5 và 6, là đoạn thơ xúc động nhắc lại kỷ niệm đáng nhớ của bà và cháu. Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời thơ ấu bên bà, người cháu tiếp tục suy ngẫm và chiêm nghiệm về cuộc đời bà qua hình ảnh bếp lửa.
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Từ hình ảnh bếp lửa ở câu trên, tác giả chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà. Bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa của sức sống và lòng yêu thương trong lòng bà. Ngọn lửa là những kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ chỉ thời gian và các động từ đã khẳng định ý chí và bản lĩnh sống của bà. Điệp ngữ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ và tự hào. “Ngọn lửa” là sáng tạo nghệ thuật đắt giá của tác giả, vừa thể hiện sự sống bất diệt của ngọn lửa, vừa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho cháu. Bà không chỉ là người nhóm lửa và giữ lửa mà còn là người truyền lửa cho người cháu và thế hệ mai sau. Bà tin cháu mình sẽ nên người và thành tài để xây dựng đất nước. Từ những hoài niệm về tuổi thơ và bà, người cháu suy ngẫm về cuộc đời và lẽ sống của bà. Bà là người tần tảo, giàu đức hi sinh và giàu lòng nhân ái:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và tiêng liêng – bếp lửa!”
Nhà thơ đã gói ghém cuộc đời bà bằng một câu thơ đảo ngữ “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”. Bốn chữ “lận đận đời bà” với cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi ra sự dài dặc của thời gian, vất vả, khổ cực, chênh vênh của một đời người. Bà đã kiên cường vượt qua mọi “mưa nắng” cuộc đời để trở thành chỗ dựa cho con cháu. Cuộc đời bà đầy gian truân, vất vả, nhiều lận đận, trải qua nhiều nắng mưa tưởng như không bao giờ dứt. Hình ảnh của bà cũng là hình ảnh của nhiều phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh dù gian truân vất vả vẫn sáng lên tình yêu thương. Và qua “mấy chục năm”, “đến tận bây giờ”, bà vẫn chẳng nghỉ ngơi. Bà vẫn giữ thói quen cũ “dậy sớm” và “nhóm bếp lửa” cũng như giữ trọn tình yêu thương dành cho con cháu mấy chục năm qua. Điệp từ “nhóm” được lặp lại nhiều lần trong khổ thơ như lời khẳng định: bà chính là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của đức hy sinh cao cả. Khi nhóm lên “lửa ấp iu nồng đượm”, bà đã dạy cho cháu tình yêu thương những người thân. Nhóm tình quê “khoai sắn ngọt bùi”, bà dạy cháu tình yêu thương xóm làng, yêu mảnh đất quê nghèo. “Nhóm nồi xôi gạo mới mẻ chung vui”, bà dạy cháu phải luôn mở lòng ra với mọi người xung quanh. Và cũng từ đó, bà nhắc nhở cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã cùng trải qua. Người bà kì diệu ấy đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục, bồi đắp cho người cháu về cả thể xác lẫn tâm hồn, về ước mơ, lẽ sống của “tâm tình tuổi nhỏ”. Bếp lửa của bà khó khăn, nhọc nhằn, vất vả. Bà nuôi cháu khôn lớn bằng bếp lửa ấy. Vậy mà giờ đây, cháu đã du học tận trời Nga xa xôi, xa bà, xa quê hương, xa Tổ quốc. Cuộc đời của cháu như một câu chuyện cổ tích. Và ở đó, bà là bà tiên hiền hậu, luôn nâng đỡ từng bước đi của cháu. Cháu đã trưởng thành từ bếp lửa của bà. Từ cuộc sống nghèo khổ, bà ươm mầm ước mơ cho cháu đi du học phương xa. Tất cả những gì cháu có được ngày hôm nay chính là nhờ ngọn lửa trong bà, ngọn lửa ấy chắp cánh cho người cháu tự tin bay vào cuộc đời cao rộng. Khám phá ra những ý nghĩa kì diệu, cao cả, thiêng liêng từ bếp lửa của bà, cháu sung sướng reo lên:
“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Từ nơi xa xôi, cháu luôn nhớ bà một cách cảm động. Đoạn thơ chỉ tám chữ nhưng có sức lan tỏa vô cùng. Bếp lửa luôn hiện diện cùng bà, tỏa sáng vẻ đẹp của bà. Cháu cảm thấy bất ngờ khi phát hiện những điều kì diệu từ những thứ bình thường. Bếp lửa và bà như hóa thân thành một, luôn rực cháy và thiêng liêng. Tác giả đã rời xa vòng tay bà, nhưng hình ảnh bà mãi là một dấu ấn khó phai. Tình cảm ấy đã trở thành bất tử trong tâm hồn tác giả. Đoạn thơ kết hợp giữa biểu cảm và miêu tả, có tính triết lí sâu sắc, sử dụng phép đảo ngữ và điệp từ hiệu quả. Hình ảnh bếp lửa và ngọn lửa biểu tượng cho tình yêu bà dành cho cháu. Bài thơ kết thúc với hình ảnh người bà vẫn tỏa sáng, trong lòng đọc giữ nhiều tình cảm mến yêu và biết ơn sâu sắc. Đoạn trích giúp hiểu hơn về hình ảnh người bà và phẩm chất cao quý của phụ nữ Việt. Gấp trang sách lại, lòng ta dấy lên cảm xúc tốt đẹp: yêu bà, yêu gia đình và yêu quê hương đất nước.