Khổ thơ thứ 2 của bài thơ Tây Tiến là một trong những đoạn thơ đặc sắc, vẽ nên một bức tranh sinh động về cuộc sống, tình cảm của người lính Tây Tiến. Đoạn thơ này toát lên một vẻ đẹp lãng mạn, trữ tình, đối lập với những khắc nghiệt của chiến tranh. Dưới đây là bài văn phân tích đoạn 2 của bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích đoạn 2 bài thơ Tây Tiến:
Mở bài: giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn 2.
Thân bài:
Vị trí đoạn trích: Nếu đoạn 1 là nỗi nhớ nhung, mong mỏi về thiên nhiên Tây Tiến của nhà thơ không thể chứa đựng nổi trong một chữ “nhớ”, nỗi nhớ rung chuyển lay động đất trời đó, tiếp tục được chuyển sang phần hai. Đó là nỗi nhớ về những kỉ niệm với nhân dân miền Tây Tiến. Cuộc hành quân gian lao vất vả, nếu không có sự ủng hộ, đồng lòng của người dân, có lẽ các chiến sĩ sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Đêm liên hoan văn nghệ thấm đẫm tình quân dân:
– Thiên nhiên và người phương Tây xuất hiện mềm mại, linh hoạt, đầy thơ và âm nhạc.
– Vẻ đẹp lãng mạn, lãng mạn, huyền ảo đã trở thành hiện thực và tưởng tượng:
“Bừng”: hình dạng gợi cảm -> Ánh sáng của ngọn đuốc.
“Đồi hoa”: Mì vừa khép kín và hiện đại cho lễ hội đêm của nghệ thuật.
“Cô ấy nhút nhát”: linh hồn lãng mạn của người lính Tay Tien.
“Kìa,”: đôi mắt, nụ cười tình yêu, tinh nghịch của những người lính trẻ tuổi.
Cảnh sông nước và con người Tây Bắc:
– Không gian là một dòng sông vào buổi chiều để lan rộng sương mù mù sương. “Độc mộc”: Chiếc thuyền được làm bằng thân gỗ lớn => Hình ảnh thơ mộng gợi lên vẻ đẹp mạnh mẽ, rắn rỏi và mạnh mẽ của người Tây Bắc ở đầu thác nước. Những bông hoa bằng bạc rung rinh trong gió => tạo ra sự gắn kết, bị phá vỡ, cỏ ở đây dường như có một linh hồn trên mỗi cây của cỏ.
– “Hoa đi bộ”: Những cơn mưa, những trận lụt lớn của lưu vực mang lại những bông hoa chao đảo trên mặt nước chảy xiết.
Nghệ thuật:
– Bút pháp chấm phá mềm mại và uyển chuyển.
– Ngôn ngữ đậm chất thơ, chất nhạc,mỗi câu thơ đều kết thúc bằng vần trắc tạo nên nhạc điệu của bài thơ.
– Sử dụng câu hỏi tu từ khéo léo
– Thể thơ thất ngôn, nhịp 4/3
– Giọng điệu phù hợp với trạng thái cảm xúc.
Kết bài: khẳng định lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
Các điểm cần nhấn mạnh khi phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến:
Khổ 2 của bài thơ Tây Tiến là một trong những đoạn thơ đặc sắc, thể hiện rõ nét cảm hứng lãng mạn và vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Khi phân tích khổ thơ này, bạn nên tập trung vào các điểm sau:
Không khí lễ hội, tình quân dân:
- Đêm hội đuốc hoa: Đây là hình ảnh trung tâm của khổ thơ, thể hiện không khí vui tươi, ấm áp của cuộc sống quân dân.
- Tình cảm quân dân: Qua hình ảnh “kìa em xiêm áo tự bao giờ” và những chi tiết miêu tả vẻ đẹp của các cô gái, ta thấy được tình cảm gắn bó, thân thiết giữa người lính và dân làng.
- Sự tương phản: Hình ảnh đêm hội vui tươi, rực rỡ đối lập với những gian khổ của chiến tranh, tạo nên một cảm xúc đặc biệt.
Vẻ đẹp lãng mạn của Tây Bắc:
- Thiên nhiên thơ mộng: Hình ảnh “hồn lau nẻo bến bờ” gợi lên một khung cảnh nên thơ, lãng mạn.
- Con người hòa hợp với thiên nhiên: Người lính hòa mình vào thiên nhiên Tây Bắc, cảm nhận vẻ đẹp của cuộc sống.
Tâm hồn nghệ sĩ của người lính:
- Khả năng quan sát và cảm nhận: Người lính không chỉ là chiến sĩ mà còn là một người nghệ sĩ, có khả năng quan sát và cảm nhận vẻ đẹp của cuộc sống.
- Nỗi nhớ quê hương: Dù xa nhà nhưng người lính vẫn luôn nhớ về quê hương, về những kỷ niệm đẹp.
Nghệ thuật của đoạn thơ:
- Ngôn ngữ giàu hình ảnh: Các hình ảnh “hội đuốc hoa”, “cỏ lau” rất sinh động, gợi cảm.
- Âm điệu nhẹ nhàng, trữ tình: Âm điệu thơ tạo nên một không khí ấm áp, gần gũi.
- Biện pháp nghệ thuật: Tác giả sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho bài thơ.
3. Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng :
Thơ ca muôn đời nay luôn là trái tim của nghệ sĩ, cây đàn piano tình cảm nhất. Thơ cũng là cầu nối giữa trái tim đến trái tim, tìm kiếm đường chân trời của một người đến đường chân trời của hàng triệu người. Bài thơ “Tây Tiến” của
Bốn câu thơ đầu miêu tả những ấn tượng sâu sắc, những cảm nhận tinh tế của chiến sĩ Tây Tiến về một đêm lửa trại:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về viên chăn xây hồn thơ”
Câu thơ đầu tiên giống như một tiếng hét hạnh phúc. Đây là lần thứ hai, “lửa” và “ngọn đuốc” được liên kết với những bông hoa trong đêm sương mù ở Mường Lát, người lính Tây Tiến nhìn vào ngọn đuốc lung linh, huyền ảo mà cảm thấy như “hoa đến trong đêm”, sau đó là thời gian Đêm này của lửa trại giữa làng phía tây. Cảm hứng ẩn dụ và lãng mạn đã khiến ngọn lửa rung động trong bóng tối của quân đội trở thành một ngọn đuốc hoa rực rỡ, nhắc nhở sự thơ mộng, tình yêu, mang lại niềm vui và sự phấn khích ngày hội. Về ánh sáng rực rỡ, bất ngờ của ngọn lửa, ngọn đuốc, xua tan bóng tối và lạnh lẽo của những ngọn núi nhưng cũng thể hiện niềm vui trong trái tim của mọi người. Người đọc có thể tưởng tượng đôi mắt ngạc nhiên, khuôn mặt tươi sáng của những người lính là do sự phản chiếu của ngọn lửa, làm ấm những người lính, ngọn lửa của niềm vui, trẻ trung, lạc quan, tin tưởng vào tương lai.
Hình ảnh trung tâm của lễ hội hoa là người con gái ở khu vực miền núi “kìa, tôi đã từng”. Sự ngưỡng mộ tình cảm của những người lính trước khi các cô gái phương Tây xuất hiện. Đó là một cảm giác rất chân thực trong một dịp hiếm hoi sau nhiều ngày diễu hành giữa rừng và những ngọn núi, sương mù dốc, dày, với sương mù dày đặc, với rừng mưa và động vật hoang dã, … Các điệu nhảy linh hoạt của sơn nữ, cũng có thể được hiểu là một giai điệu đam mê, ngọt ngào và hoang dã, chỉ là bí ẩn, chỉ mới và lạ. mê hoặc trái tim của mọi người. Với linh hồn hào hoa, nghệ sĩ đặc biệt nhạy cảm với vẻ đẹp, người lính phương Tây ngưỡng mộ và cảm nhận những hình ảnh tuyệt vời, những âm thanh ngọt ngào của đêm lửa trại để được phát hành phiêu lưu, bay, bay theo lịch trình trong thế giới mơ mộng, để xây dựng “linh hồn thơ ca” .
Trong dòng chảy miên viễn của thời gian, những hoài niệm bỗng lắng lại thật sâu ở một buổi chiều sương mộc:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Những bức vẽ mềm mại, tinh tế đã tạo ra một bức tranh đầy nước với linh hồn của nách, sương mù hơi ngất xỉu với những người trên thuyền độc và cánh hoa trôi trong nước lũ. “Chiều sương” gói không gian được bao phủ bởi một lớp phong cảnh buồn. Từ “thấy” vần với từ “xem” làm cho giai điệu của câu thơ nặng như một ghi chú, như một lời nhắc nhở trong nỗi nhớ về sự đăm chiêu. Tùy thuộc vào tác động của nỗi nhớ, những bông hoa lau, run rẩy trên bờ dường như có hồn hơn. Mô tả các vòm của dòng sông, hình ảnh của “những bông hoa” không dừng lại ở ý nghĩa cụ thể đó mà còn dẫn đến các hiệp hội thơ mộng về sự xuất hiện tình yêu, mềm mại của phụ nữ phương Tây, đó là một sáng tạo mới của các từ thể hiện Sự lãng mạn độc đáo của linh hồn thơ của Quang Dũng
Bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến đã bị cuốn vào niềm đam mê của cảm xúc bởi Quang Dũng, những dòng vẽ ấn tượng và âm thanh rõ ràng của âm nhạc. Bức tranh đó là nền đẹp để người lính Tây Tiến xuất hiện một cách dũng cảm và hùng mạnh. Cũng trên nền tảng đó, linh hồn và tài năng của nhà thơ đã có đôi cánh bởi niềm đam mê trong cảm xúc và tài năng của nghệ thuật.
Gấp trang giấy, nhưng những bài thơ của Quang Dũng vẫn còn phát triển mạnh và sau đó cảm giác trung thực nhất của nhà thơ đã gửi neo mãi mãi trong tâm hồn con người để trở thành một cảm giác phổ biến.
4. Phân tích đoạn 2 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:
Quang Dũng là một người lính của Đơn vị Tây Tiến, một đơn vị có nhiệm vụ phối hợp với những người lính Lào để giải phóng và bảo vệ biên giới phía tây của đất nước. Sau đó, phân phân chuyển đơn vị làm việc. Năm 1948, từng ngồi ở làng Phù Lưu Chanh (một nơi cũ ở tỉnh Hà Đông), nhớ lại những ký ức về quân đội Tây Tiến, tác giả đã viết nên bài thơ Tây Tiến. Tây Tiến không chỉ là một bài thơ nổi tiếng về đoàn quân Tây Tiến nói riêng, về sự kháng cự của nhân dân chống lại người Pháp nói chung, mà còn là một trong những tác phẩm điển hình về chủ đề của những người lính, vẻ đẹp lãng mạn và trang phục bi tráng được thể hiện ở thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh của người lính là hai nguồn cảm hứng trong cảm hứng và cây bút nghệ thuật của Tây Tiến. Bài thơ sau đây đã viết về những ký ức tình yêu của mọi người và vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông Tây Bắc với những nét khắc nghiệt và tinh tế:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Từ “bừng” trong câu thơ đầu tiên của đoạn thơ đã gợi cho ta cảm giác đột ngột. Đó là sự “bừng” sáng của hội đuốc hoa, của lửa trại hay sự tưng bừng rộn rã của tiếng khèn, tiếng hát? “Đuốc hoa” vốn là một từ cổ để chỉ cây nến đốt lên trong phòng cưới đêm tân hôn “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng Mai xưa”. Hình ảnh này xuất hiện trong đêm vui liên hoan của người lính đã tạo nên một màu sắc vừa cổ kính vừa hiện đại, vừa thiêng liêng vừa ấm áp tình keo sơn quân dân gắn bó.
Đây là đoạn thơ bộc lộ rất rõ nét tài hoa của ngòi bút Quang Dũng. Hồn thơ lãng mạn của ông bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ. Vì thế, cảnh là cảnh trong hoài niệm vậy mà lời thơ lại cho ta cảm giác đó là cảnh đang diễn ra ngay trước mắt. Và nhà thơ như đang nói với người vũ nữ “Kìa em xiêm áo tự bao giờ!” – một giọng thơ thật trìu mến, thích thú, vui sướng! Vui sướng đến ngạc nhiên ngỡ ngàng trước vẻ đẹp vừa e thẹn, vừa tình tứ (nàng e ấp) với bộ xiêm y lộng lẫy trong một vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ (man điệu). Chỉ bằng 4 câu thơ mà Quang Dũng đã dựng được một bức tranh vừa phong phú về màu sắc đường nét, vừa đa dạng về âm thanh.
Nếu cảnh đêm của lễ hội âm nhạc trong những câu thơ trên mang đến cho độc giả bầu không khí hấp dẫn, thì cảnh sông Tây Bắc gọi cảm giác to lớn, hoang dã, yên tĩnh và mờ nhạt chứa Chan. thi vị. Ở đây một lần nữa xác nhận tài năng, sự lãng mạn, giấc mơ của người lính. Thiên nhiên ở nơi chỉ có “núi sương, đám mây đi qua” khi cảnh buổi chiều vốn đã mờ nhạt và mờ hơn khi có một lớp sương mù của bảng giống như một giấc mơ như một giấc mơ. Thông qua nỗi nhớ, phong cảnh Tây Bắc có mặt trong ký ức của tác giả khiến thơ của tác giả nói: “Hãy nhớ? Đã thấy?” Càng gợi nhớ đến cảm giác ở rất xa, đầy sự gắn bó. Người đàn ông tài năng và lãng mạn đó đã nhìn thấy những linh hồn to lớn trong gió trong cây như một sự khuấy động:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Hình ảnh này chúng ta đã từng gặp trong thơ của Chế Lan Viên:
Ai đi biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời cùng với gió giao tranh
(Lau biên giới)
Hay những câu thơ viết về hồn lau trong gió gợi cảm giác về cảnh buồn vắng lặng tờ như thời tiền sử huyền thoại của thi sĩ kiêm họa sĩ Hoàng Hữu:
Trường vắng mưa mờ buông dốc xa
Dày leo nửa mái sắc rêu nhoà
Người xa phơ phất hồn lau gió
Thổi trắng chân đồi như khói pha
(Hoa lau trường cũ)
Trong khung cảnh sông nước, chiều sương mang đậm màu sắc cổ kính huyền thoại ấy hiện lên hình ảnh con thuyền độc mộc với cái dáng mềm mại của cô gái và bông hoa trôi theo dòng nước lũ:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Câu nói của người xưa: “Thi trung hữu họa” thật đúng với trường hợp này. Ngòi bút tinh tế của Quang Dũng chỉ phác hoạ một vài nét mà không chỉ gợi được cái “hồn” của ngàn lau mà còn cả cái dáng rất tạo hình của cô gái lái đò người Mèo, người Thái, cái dáng ngả nghiêng rất tình tứ “đong đưa” chứ không phải “đung đưa” của những bông hoa rừng như muốn làm duyên bên dòng nước lũ. Hai từ “thấy” và “nhớ” được tác giả dùng trong hai câu thơ trên cũng khá tinh tế. Dường như cái hồn thiêng của bông hoa lau đã in hình rõ nét trong mắt tác giả còn cái dáng mềm mại thon thả của cô lái đò cùng bông hoa rừng đong đưa lại khắc sâu vào tâm trí nhà thơ vốn giàu tình yêu cảnh đẹp non sông đất nước này. Không có một tâm hồn nhạy cảm tài hoa thì không thể bắt rất nhạy những hình ảnh giàu hình sắc của hoa như thế.
Bốn câu thơ giống như một bức tranh mặc đồ nước với những nét vẽ, tinh tế, mềm mại và tài năng đã truyền tải linh hồn của khung cảnh. Hơn nữa, đọc bài thơ này, người đọc cảm thấy rằng bài thơ không chỉ được khắc, quang phổ nằm trong những nốt nhạc tinh tế, mà âm nhạc cũng được lấy từ một tâm hồn đam mê với cảnh và người phương Tây là người lính quốc gia Tây Tiến. Vì vậy, thật tốt khi Xuân Diệu nhận xét rằng “đọc bài thơ Tây Tiến, chúng tôi cảm thấy như mút nhạc trong miệng”.
Bài thơ cho thấy cây bút tài năng của tác giả. Do đó, người đọc đã nhìn thấy cảnh của lễ hội âm nhạc, sông Tây Bắc mang đến một vẻ đẹp thực sự lãng mạn nhưng huyền ảo với mỗi bài thơ vừa giàu âm nhạc vừa phong phú về hội họa. Nó cũng là một sự kết hợp hài hòa tuyệt vời giữa ba yếu tố: thơ, âm nhạc, hội họa trong thơ của Quang Dũng.
5. Phân tích khổ thơ thứ 2 bài Tây Tiến của Quang Dũng:
Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có thể nói là một trong những bài thơ thành công nhất về đề tài người lính. Toàn bài đã in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn ấy, nhà thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang một vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, tráng lệ. Bài thơ này giống như miền kí ức của tác giả về binh đoàn Tây Tiến. Không chỉ có những ngày tháng gian khó với đèo cao, thác dữ, mưa rừng, thú dữ, sương mù, mà trong miền ký ức của nhà thơ còn có cả ánh sáng của những đêm liên hoan tưng bừng và cảnh sắc buổi chiều êm ả, mông lung nơi núi rừng Tây Bắc. Tất cả những điều đó đã được Quang Dũng tái hiện thành công qua khổ thơ thứ hai của bài.
“Thơ làm cho tất cả những gì tốt đẹp trở thành bất tử”. (Shefley) Và Quang Dũng đã làm sống lại những gì đẹp đẽ nhất, những kí ức khó quên nhất trong cuộc đời người lính. Đó không chỉ là những giây phút hành quân nơi núi cao vực sâu dốc thẳm mà còn là những khoảnh khắc bình yên. Đêm hội liên hoan tại một bản làng trên vùng núi cao Tây Bắc là một hành trang tinh thần không thể thiếu trong cuộc đời người lính.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”
Doanh trại không chỉ là không gian của hiện thực mà còn là không gian của tâm tưởng, của hoài niệm và nỗi nhớ. Nơi đó đang bừng lên bởi những ngọn lửa bập bùng mà tác giả liên tưởng đến đuốc hoa. Những bông hoa lửa như thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn, đẩy lùi bóng tối, xua tan sự lạnh lẽo, làm bừng sáng cả không gian. Hai từ “bừng lên” không chỉ là bừng lên của ngọn đuốc mà còn là “bừng lên” của kỉ niệm, của hồi ức như một tiếng reo vui biết bao hồ hởi, say mê. Không còn những chặng đường hành quân vất vả, cũng không còn những bước chân nhọc nhằn ra trận mà chỉ còn lại không khí rộn ràng sôi nổi. Người lính như quên hết những mệt mỏi hiểm nguy để đắm hồn mình vào đêm hội liên hoan ấy.
Nếu khung cảnh đêm liên hoan văn nghệ trong những câu thơ trên đem đến cho người đọc không khí mê say ngây ngất thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gọi lên được cảm giác mênh mang, hoang dại, tĩnh lặng và mờ ảo thật chứa chan thi vị. Ở đây một lần nữa càng khẳng định rõ hơn nét tài hoa, lãng mạn, giấc mộng mơ của người lính. Thiên nhiên ở nơi chốn chỉ có “Núi sương giăng, đèo mây phủ” khi cảnh chiều về vốn đã mờ ảo lại càng mờ ảo thêm khi có lớp sương mờ bảng lảng choàng thêm một tấm áo như thực như mơ. Qua hoài niệm, khung cảnh Tây Bắc như hiện về trong kí ức của tác giả làm cho giọng thơ của tác giả cất lên như lời tự hỏi “có nhớ? có thấy?” day dứt càng gợi cảm giác bâng khuâng xa vắng, đầy lưu luyến. Con người tài hoa và lãng mạn ấy thấy bạt ngàn hồn lau trong gió trong cây như xôn xao một nỗi niềm:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Hình ảnh này chúng ta đã từng gặp trong thơ của Chế Lan Viên:
Ai đi biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời cùng với gió giao tranh
(Lau biên giới)
Hay những câu thơ viết về hồn lau trong gió gợi cảm giác về cảnh buồn vắng lặng tờ như thời tiền sử huyền thoại của thi sĩ kiêm họa sĩ Hoàng Hữu:
Trường vắng mưa mờ buông dốc xa
Dày leo nửa mái sắc rêu nhoà
Người xa phơ phất hồn lau gió
Thổi trắng chân đồi như khói pha
(Hoa lau trường cũ)
Trong khung cảnh sông nước, chiều sương mang đậm màu sắc cổ kính huyền thoại ấy hiện lên hình ảnh con thuyền độc mộc với cái dáng mềm mại của cô gái và bông hoa trôi theo dòng nước lũ:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Câu nói của người xưa: “Thi trung hữu họa” thật đúng với trường hợp này. Ngòi bút tinh tế của Quang Dũng chỉ phác hoạ một vài nét mà không chỉ gợi được cái “hồn” của ngàn lau mà còn cả cái dáng rất tạo hình của cô gái lái đò người Mèo, người Thái, cái dáng ngả nghiêng rất tình tứ “đong đưa” chứ không phải “đung đưa” của những bông hoa rừng như muốn làm duyên bên dòng nước lũ. Hai từ “thấy” và “nhớ” được tác giả dùng trong hai câu thơ trên cũng khá tinh tế. Dường như cái hồn thiêng của bông hoa lau đã in hình rõ nét trong mắt tác giả còn cái dáng mềm mại thon thả của cô lái đò cùng bông hoa rừng đong đưa lại khắc sâu vào tâm trí nhà thơ vốn giàu tình yêu cảnh đẹp non sông đất nước này. Không có một tâm hồn nhạy cảm tài hoa thì không thể bắt rất nhạy những hình ảnh giàu hình sắc của hoa như thế.
Bốn câu thơ như một bức tranh thủy mặc với những nét vẽ chấm phá, tinh tế, mềm mại, tài hoa đã truyền được cái hồn của cảnh vật. Hơn thế, đọc đoạn thơ này lên, người đọc có cảm giác đoạn thơ không chỉ được khắc, được phổ vào những nốt nhạc tinh tế mà nhạc điều đó còn được cất lên từ một tâm hồn say đắm với cảnh và người miền Tây Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cho nên rất có lí khi Xuân Diệu nhận xét “Đọc bài thơ Tây Tiến ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng”.
Đoạn thơ thể hiện bút pháp tài hoa của tác giả. Qua đó, người đọc thấy cảnh đêm liên hoan văn nghệ, cái sông nước Tây Bắc mang vẻ đẹp hiện thực lãng mạn mà huyền ảo với từng vần thơ vừa giàu chất nhạc vừa giàu chất họa. Đó cũng chính là sự kết hợp hài hòa tuyệt diệu giữa ba yếu tố: thơ, nhạc, họa trong thi phẩm của Quang Dũng.
THAM KHẢO THÊM: