Nếu như khổ thơ đầu tiên trong bài Sóng là lời tự giới thiệu của một tâm hồn đang yêu thì ba khổ thơ tiếp theo chính là những câu hỏi, những trăn trở mà bất cứ ai khi yêu đều từng trải qua. Dưới đây là bài phân tích khổ 2, 3 và 4 bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích khổ 2, 3 và 4 bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh:
Mở bài:
Giới thiệu đoạn tả nhà thơ Xuân Quỳnh, bài thơ Sóng và nội dung nổi bật của 3 khổ thơ
Thân bài:
a. Khổ thơ thứ hai: Thể hiện niềm khao khát tình yêu luôn cháy bỏng trong lòng nữ sĩ
-
Sóng là một hiện tượng tự nhiên vĩnh cửu trong đại dương bao la. Nó là biểu tượng của sự sống vĩnh cửu, kỳ diệu, là biểu tượng của sự trường tồn bất biến với thời gian.
-
Xây dựng hình ảnh “sóng ngày xưa”, “ngày sau” với việc sử dụng tính từ cảm thán “ơi”, tình thái từ “vẫn thế”, Xuân Quỳnh đã khéo léo thể hiện khát vọng vô cùng cao đẹp. dung dịch cao.
-
Sóng ở đây là sóng lòng, sóng chính là “em”. Sóng biển muôn thuở, tự nhiên như tình yêu là câu chuyện muôn thuở của lứa đôi, là “ước vọng” đầy hoài niệm của trai gái từ xưa đến nay.
-
Bên cạnh “ngày xưa” “hôm nay”, Xuân Quỳnh đã khéo léo đưa điệp từ “thuở nhỏ” vào cuối câu thơ, nhấn mạnh sức sống tìm tòi của tình yêu.
b. Khổ thơ thứ 3: Khát khao khám phá những bí mật của tình yêu
-
Những trăn trở, suy tư trong tâm trí nữ thi sĩ được gợi lên qua một loạt câu thơ mở đầu bằng cấu trúc “tôi nghĩ” đầy suy tư.
-
Đứng trước không gian bao la, vô tận, nhà thơ chợt nhớ đến sự hoang mang, vô hạn của tình yêu.
-
Tình yêu không chỉ là hoang mang, vô tận, trong đại dương, mà nó còn chứa đựng cảm xúc của bão tố, bão tố, bí ẩn khiến con người ta băn khoăn, mê mẩn, khao khát tìm lời giải đáp.
c. Câu 4: Khao khát khám phá, tìm về cội nguồn yêu thương
-
Nhà thơ sử dụng hàng loạt câu hỏi từ, ngắt nhịp theo nhịp sóng
-
Bám vào sóng biển, nàng bắt đầu hành trình đi tìm cội nguồn của tình yêu, đồng thời lí giải bản chất của nó.
-
“Em cũng không biết/ Bao giờ ta mới yêu” vừa là câu trả lời dịu dàng, vừa là lời thổ lộ về kết quả khám phá cội nguồn của tình yêu.
-
Tình yêu là một thứ tình cảm ẩn sâu trong trái tim con người, nó là một hiện tượng chỉ có thể cảm nhận chứ không thể lý giải, cũng như không thể xóa bỏ ý nghĩa của nó.
D. Phê bình nghệ thuật
-
Hình ảnh gợi cảm độc đáo, đặc biệt là nghệ thuật điệp ngữ, điệp cấu trúc và câu hỏi tu từ đả kích.
-
Thể thơ năm chữ, ngắt nhịp lỏng lẻo tạo âm hưởng phong phú. Nhịp thơ có lúc nhẹ nhàng, khi lại dữ dội.
-
Qua đó, nhà thơ đã bày tỏ những trải nghiệm, suy ngẫm về cội nguồn của tình yêu cũng như khát vọng về một tình yêu thủy chung, tốt đẹp.
Kết luận:
Đánh giá lại giá trị của 3 khổ thơ và tài năng của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh.
2. Phân tích khổ 2, 3, 4 bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh hay nhất:
Ba khổ thơ 2, 3, 4 trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là một khúc giao hưởng về tình yêu, nơi những cung bậc cảm xúc từ nhẹ nhàng đến mãnh liệt được hòa quyện. Qua những câu thơ ấy, nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh sinh động về tâm trạng của người phụ nữ khi yêu, từ những băn khoăn, trăn trở đến những khát khao cháy bỏng.
Bài thơ là kết quả của chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền – Thái Bình cuối năm 1967, được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). Con người Việt Nam thời kì kháng chiến lại viết về tình yêu, tình cảm riêng tư và vĩnh hằng nhất của nhân loại. Vì thế, bài thơ được coi là “bông hoa lạ” nở “dọc chiến hào” những năm kháng chiến chống Mỹ. Sau hai khổ thơ đầu về những quy luật của tình yêu, “em” vẫn chưa thỏa mình mà muốn truy tìm căn nguyên, nguồn gốc của tình yêu.
Khổ 2 bài thơ Sóng thể hiện nỗi khát vọng của người con gái:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Con sóng từ ngàn năm vẫn thế, vẫn tính chất, đặc điểm ấy không bao giờ thay đổi. Và người con gái cũng vậy khát vọng tình yêu luôn thường trực, rạo rực trong trái tim, bao nhiêu năm vẫn hướng về tình yêu, về người yêu.
Trước không gian mênh mông biển lớn, người già hay nghĩ về sự hư vô, nhỏ bé của kiếp người; kẻ tráng trí hùng tâm lại một lòng: “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/ Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” (Phan Bội Châu); kẻ đa cảm lại thấy: “Vắng cánh buồm một chút cũng cô đơn” (Hữu Thỉnh). Còn Xuân Quỳnh, đứng trước biển lại là những suy nghĩ, cảm nhận chân thực và cụ thể nhất:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?”
Trước sự mãnh liệt và kì diệu của tình yêu, con người luôn có nhu cầu khám phá những bí ẩn vốn luôn tồn tại trong nó, luôn muốn cắt nghĩa được cội nguồn của tình yêu. Song đó lại là một trạng thái tâm lí dễ giả thích bằng những lí lẽ thông thường, khó ai có thể trả lời một cách chính xác về nguyên nhân, khởi nguồn của tình yêu, cũng như khi Xuân Diệu băn khoăn: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?”. Câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên” nhẹ lơi như hơi thở, tưởng bâng quơ mà hóa ra bận bịu lòng người. Vẫn là ước muốn truy tìm đến tận cùng bản thể: “Con người từ đâu đến? Nó sẽ đi về đâu? Tinh yêu từ nơi nào mà lớn lên vậy?”
Khổ thơ tiếp theo lại là câu hỏi dồn dập như những con sóng nối tiếp đến vô cùng, miên man không dứt, đưa con người tới những suy ngẫm vô tận:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Trả lời cho câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên?”, lời đáp thật dễ dàng, chóng vánh: “Sóng bắt đầu từ gió”. Câu hỏi thứ hai ráo riết hơn, lí trí muốn đẩy những băn khoăn đến tột cùng: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Những câu hỏi tu từ lúc ẩn duối chân sóng, lúc lại trào lên đầu ngọn sóng như những trăn trở. Nhân vật trữ tình không cảm nhận về sóng mà nghĩ về sóng. Nương theo những con sóng, nhà thơ bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn tình yêu và phân tích, lí giải bản chất của tình yêu. Đó cũng là mong muốn muôn đời của biết bao đôi lứa. Câu trả lời vừa là sự thú nhận, vừa là sự thức nhận: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Thú nhận về sự bất lực trên hành trình tìm kiếm nguồn cội tình yêu nhưng lại là sự thức nhận sâu sắc: tình yêu là điều huyền diệu, con người chỉ có thể cảm nhận chứ không thể truy tìm cội nguồn, cũng không thể cắt nghĩa rõ ràng, tách bạch. Chẳng phải thể mà Xuân Diệu cũng chia sẻ:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”
Xuân Diệu hỏi để lí giải còn Xuân Quỳnh nghiêng về tiếng nói tình cảm. Hỏi chỉ để cảm nhận được sự hiện của tình yêu.
Như vậy, qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã thể hiện được những chiêm nghiệm, suy ngẫm về cội nguồn của tình yêu cũng như cung bậc của người phụ nữ đang yêu. Sự song hành hình tượng sóng và em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế, vừa chủ động mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành, tha thiết. Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp phóng túng đã thể hiện xuất sắc âm hưởng dào dạt của sóng biển, sóng lòng. Câu hỏi tu từ, hình ảnh thơ vừa tự nhiên, trong sáng lại có sức gợi mở và suy tưởng đến không ngờ.
Lưu loát theo mạch cảm xúc, ba khổ thơ 2, 3, 4 vẽ nên vẻ đẹp rất Á Đông của người phụ nữ trong tình yêu. Đó là khát khao được cống hiến, được đắm chìm trong tình yêu dạt dào, nồng nàn và vĩnh cửu. Vẻ đẹp hiện đại, rất riêng, tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh thời kì đầu. Sau này, dù chịu nhiều cay đắng nhưng khát vọng ấy vẫn cháy bỏng trong trái tim nhiệt huyết của nhà thơ.
2. Phân tích Sóng khổ 2, 3, 4 của Xuân Quỳnh hay nhất:
Xuân Quỳnh được biết đến với những bài thơ tình nổi tiếng như: Thuyền và biển, Tự hát, Sóng… Trong đó, “Sóng” là một tác phẩm nổi bật, đã bộc lộ được những khát khao của người con gái trong tình yêu. Điều đó được thể hiện qua khổ thơ thứ hai, ba và bốn của bài thơ.
Ba khổ thơ dưới đây trích trong phần đầu bài thơ. Hình tượng “sóng” trong sự liên hệ đối sánh với nhân vật trữ tình “em” đã đem đến cho tâm hồn ta bao gợi cảm phong phú bất ngờ:
“Ôi con sóng ngày xưa
…
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”.
Sóng là hiện tượng muôn đời của đại dương bao la. Còn vũ trụ, đất trời thì còn có đại dương; đại dương còn thì còn “muôn trùng sóng bể”. Sóng là sức sống vĩnh hằng, kì diệu của biển, trường tồn trong dòng chảy thời gian: “Ôi con sóng ngày xưa – Và ngày sau vẫn thế Từ “ôi” cảm thán cất lên đầy xúc động ngây ngất của một nỗi niềm. Sóng của biển cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của lứa đỏi, là “khát vọng” của trai gái xưa nay. Sóng reo, sóng vỗ trên biển cả mênh mông cũng như “con sóng” tình yêu biến hóa vô cùng, lúc thì “dữ dội và dịu êm”, lúc thì “ồn ào và lặng lẽ” làm cho trái tim tuổi trẻ rung động, xao xuyến, “bồi hồi”:
“Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”.
Hình tượng “sóng” trong những vần thơ ngọt ngào thiết tha đầy gợi cảm mang tính nhân văn. “Trước muôn trùng sóng bể” của đại dương mênh mông, lớp lớp sóng Hên hồi, vô tận, thiếu nữ “bồi hồi” nghĩ về quy luật của sự sống, về sự trường tồn của đại dương, về nguyên nhân kì diệu nào mà có “sóng lên”. Rồi thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối nhân duyên của mình, về tình yêu của “em” và “anh”. Điệp ngữ: “Em nghĩ về … Em nghĩ về … kết hợp với câu hỏi tu từ: “Từ nơi nào sóng lên?” đã làm cho giọng thơ nồng nàn, say đắm,cảm xúc bâng khuâng triền miên dào dạt dâng lên. Hình tượng “sóng” và sự liên tưởng phong phú được diễn tả một cách thi vị:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên”.
Hỏi sóng rồi hỏi gió: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Rồi thiếu nữ lại tự hỏi trái tim mình, tự hỏi lòng mình: “Khi nào ta yêu nhau”. Đó là tâm trạng của “em”, của bất cứ chàng trai cô gái nào trong tình yêu. Và phải là mối tình mới có câu hỏi ấy. Tinh yêu đã đến với “em” tự bao giờ, nhưng cái khắc khoải “thắm lại” của hai tâm hồn “anh” và “em”, đâu dễ trả lời. Ông chúa thơ tình Xuân Diệu đã viết: ” Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”… Tuy không trả lời được câu hỏi: “Khi nào ta yêu nhau?” nhưng cái khoảnh khắc thần tiên của mối tình đầu mãi mãi được ghi sâu trong lòng người:
“Cái thuở ban đầu đầy lưu luyến ấy
Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?”
(Thế Lữ)
Sức gợi cảm của hình tượng “sóng” thật phong phú và bất ngờ. Sóng tồn tại trong trạng thái “động”, trong mọi không gian “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước” tầng tầng lớp lớp “muôn trùng sóng bể”. Có sóng ngầm và nhấp nhô sóng biếc. Sóng được nhân hóa, sóng thao thức suốt đêm ngày trong mọi thời gian: “Sóng nhớ bờ”, trong mọi trạng thái: “Sóng không ngủ được”. Sóng được cảm nhận bằng thính giác, bằng thị giác, bằng tri giác và cả bằng tâm hồn. Hình tượng “sóng” càng trở nên thơ mộng gợi cảm:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”.
Cấu trúc song hành, đối xứng: “dưới lòng sâu // trên mặt nước”, “ngày // đêm”, “nhớ bờ // không ngủ được” và điệp ngữ “con sóng” đã làm cho ngôn ngữ thơ cân xứng hài hòa, âm điệu, nhạc điệu thơ nhịp nhàng, uyển chuyển, say đắm và ngọt ngào. Nhạc của thơ, vị ngọt tình yêu như được hòa quyện trong không gian, trong thời gian, và cả trong lòng người.
Xuân Quỳnh có lúc mượn “thuyền” và “biển” làm ẩn dụ để nói lên nỗi nhớ thương của lứa đôi:
“Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ…”.
(Thuyền và biển)
Từ hiện tượng “sóng nhớ bờ”, nữ sĩ liên tưởng đến nỗi nhớ “em nhớ đến anh”, một nỗi nhớ da diết, triền miên, bồi hồi khôn xiết kể, cả trong cõi thực và cả trong cơn mơ, trong ý thức và cả trong tiềm thức:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”.
Sóng là quy luật vận động của vũ trụ, của đại dương. Tưởng tượng “sóng nhớ bờ” rồi liên hệ, đối sánh với “em”, với nỗi niềm “lòng em nhớ đến anh…” thật bất ngờ, thú vị. Ca dao nói nhiều về nỗi nhớ của trai gái làng quê. Có nỗi nhớ day dứt khôn nguôi: “Nhớ ai nhớ mãi thế này?- Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn”. Có nỗi nhớ bồn chồn, ngẩn ngơ: “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ- Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”. Có nỗi nhớ bồi hồi: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi – Như đứng đống lửa, như ngồi đống than. Qua đó, ta mới cảm thấy nỗi nhớ của “em”, nhân vật trữ tình trong bài thơ “Sóng”: “Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức” là sâu sắc, bất ngờ, mới mẻ.
Năm 1962, thi sĩ Xuân Diệu viết bài thơ tình “Biển” trong đó hình tượng “sóng” là ẩn dụ về chàng trai đa tình, yêu say đắm, nồng nhiệt:
“Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi”…
Bài thơ “Biển” là một thử thách lớn đối với Xuân Quỳnh. Năm năm sau, bài ra đời, ẩn dụ “sóng” nói về thiếu nữ trong mối tình đầu với bao phẩm chất tốt đẹp. Đó là sáng tạo, có thể nói là “bất ngờ”.
Với những giá trị đó, 3 khổ thơ đã góp phần không nhỏ làm nên thành công của “Sóng” và khẳng định hồn thơ Xuân Quỳnh. Đọc thơ bà, chúng ta dường như cũng cảm nhận được rung động tình yêu và lắng nghe được tiếng lòng mình. Vì vậy, vượt qua sự bào mòn của thời gian, thơ Xuân Quỳnh vẫn có một sức sống mãnh liệt trong lòng độc giả.
THAM KHẢO THÊM: