Văn bản Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến đem đến một tình huống gây cười khi cả ba kẻ mê sắc đều tụ hội ở nhà Thị Hến và được một phen bẽ mặt, xấu hổ, nhục nhã. Mời các em phân tích chi tiết tác phẩm để hiểu hơn về tiếng cười châm biếm của tác phẩm.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến:
1.1. Dàn ý mẫu 1:
Mở bài:
– Giới thiệu vở chèo, đoạn trích.
Thân bài:
* Nhân vật Thị Hến
Thị Hến là một phụ nữ đã mất chồng, thông minh và tinh ranh. Khi cô phát hiện rằng cả ba người đàn ông Huyện Trìa, Đề Hầu, và Thầy Nghêu đều mê mẩn cô, cô đã sử dụng mưu mẹo để lừa ba người và khiến họ nhận ra sai lầm của mình.
Tuy nhiên, Thị Hến cũng là người biết cách giữ gìn phẩm hạnh
*Nguyên nhân làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các nhân vật
Lý do gây ra, khiến mâu thuẫn nảy sinh, giữa các nhân vật: cả ba Huyện Trìa, Đề Hầu và Thầy Nghêu đều bị cuốn hút bởi Thị Hến.
Cách giải quyết mâu thuẫn: cả ba nhân vật đều bị Thị Hến đẩy vào tình thế khó khăn, để họ tự mình đưa ra quyết định và giải quyết vấn đề.
* Tiếng cười từ tình huống mắc lỡm của các nhân vật Huyện Trìa, Đề Hầu, Thầy Nghêu
Tiếng cười vang lên từ tình huống khó xử của ba nhân vật Huyện Trìa, Đề Hầu và Thầy Nghêu không phải là sự vui mừng, mà nó phản ánh một loạt lời châm biếm và những lời mỉa mai. Điều này xảy ra khi họ vụng về bị cuốn hút bởi vẻ đẹp và dẫn đến tự hại bản thân. Cười lớn đó còn mang trong nó một cảm giác chế giễu, vì ba quan chức quyền thế, người đứng đầu một huyện, lại có những hành động vi phạm thuần phong mỹ tục.
* Đặc điểm của tuồng đồ được thể hiện qua văn bản
Những đặc điểm đặc trưng của tuồng đồ hiện ra trong văn bản khi nhắc đến Huyện Trìa, Đề Hầu và Thầy Nghêu bị cuốn vào vòng xoáy với Thị Hến.
Chủ đề: Khai thác đời sống hàng ngày. Ở đây, 3 nhân vật chính, Huyện Trìa, Đề Hầu và Thầy Nghêu, đam mê sắc đẹp, và phải chịu trách nhiệm về hậu quả.
Nhân vật: Những người chính thường được gọi bằng danh xưng theo nghề nghiệp, như Huyện Trìa, Đề Hầu, và Thầy Nghêu. Tính cách của các nhân vật không thay đổi và duy trì suốt cả bài diễn.
Diễn đạt qua các đoạn hội thoại, độc thoại, và bàng thoại.
Xuất phát từ các câu chuyện dân gian về Nghêu, Sò, Ốc, Hến.
Kết bài:
– Khẳng định ý nghĩa, giá trị của đoạn trích.
1.2. Dàn ý mẫu 2:
Mở bài:
– Giới thiệu vở chèo, đoạn trích.
Thân bài:
* Đặc điểm của tuồng thể hiện qua văn bản
– Chủ đề: Khai thác bối cảnh cuộc sống hàng ngày. Ở đây, trọng tâm là việc ba nhân vật Huyện Trìa, Đề Hầu và Thầy Nghêu đam mê vẻ đẹp, dẫn đến việc họ phải tự gánh nỗi nợ.
– Nhân vật: Các nhân vật chính thường được gọi bằng danh xưng theo nghề nghiệp như Huyện Trìa, Đề Hầu và Thầy Nghêu. Tính cách của họ không thay đổi và được thể hiện qua toàn bộ cuộc hội thoại.
– Phần diễn đạt: Bao gồm cả phần đối thoại, độc thoại và bàng thoại.
* Tình huống đoạn trích
Thời điểm: Buổi tối, bầu trời tối
Nơi diễn ra: Tại ngôi nhà của nàng Thị Hến
Tình hình trong câu chuyện: Nghêu đã bước vào nhà của Thị Hến và thể hiện tình cảm mến mộ bà từ lâu. Trong thời điểm ấy, khi cả hai đang thân mật, bất ngờ Đề Hầu đến, khiến Thị Hến phải gọi Nghêu xuống giường và nhanh chóng trốn đi. Đề Hầu sau đó gia nhập, Thị Hến sử dụng lời ngọt ngào để tỏ tình và thể hiện tình cảm sâu sắc. Sau đó, bà hỏi về việc tu phá giới. Lúc đó, Huyện Trìa xuất hiện, Đề Hầu phải nhanh chóng tìm chỗ trốn. Huyện Trìa tiết lộ tình yêu của mình dành cho Thị Hến. Đồng thời, Nghêu cũng xuất hiện và Đề Hầu cũng lộ diện. Ba người đối diện nhau với cảm xúc từ tức giận đến ngượng ngùng, rồi cuối cùng ra về.
* Yếu tố tạo nên tiếng cười
Tình huống tạo ra nụ cười trong đoạn trích: căng thẳng, đầy bất ngờ, khiến những người gây cười phải “vạch áo cho người xem lưng”.
Nụ cười trong đoạn trích được thể hiện thông qua ngôn ngữ, cử chỉ của từng nhân vật.
Sử dụng ngôn ngữ mỉa mai và châm biếm trong cách diễn đạt của từng nhân vật.
=> Ngôn ngữ và cử chỉ giúp người đọc hình dung được tư thế và hành động của từng nhân vật, đồng thời thể hiện sự hoảng sợ, bất an, cảm giác cười khi việc gian lận bị “lật mặt”, nhận ra sự tương phản giữa tình huống trước và sau khi bị phơi bày.
=> Tác giả đã khá thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ và cử chỉ để tạo ra nụ cười.
Các hướng dẫn về sân khấu thường được đặt trong dấu ngoặc của văn bản tuồng:
– Các hướng dẫn sân khấu được in đậm, xuất hiện trước lời thoại của nhân vật, giúp người đọc nắm vững diễn biến từng sự kiện, tình tiết trong văn bản tuồng, từ đó hình dung rõ sự chuyển động, hành động của từng nhân vật trên sân khấu tuồng.
– Những chỉ dẫn được đặt trong dấu ngoặc, không in đậm, xuất hiện trong lời nói của nhân vật. Người đọc hiểu rằng đó là những lời đưa đẩy, những tiếng thở của nhân vật, được sử dụng để nhắc diễn viên nâng hoặc hạ giọng khi diễn. Như vậy, giúp người đọc hình dung rõ ràng về điệu bộ, cử chỉ, biểu cảm của nhân vật trên sân khấu.
* Đặc điểm các nhân vật:
– Người dân kể chuyện đã thể hiện sự thông cảm với nhân vật Thị Hến, lên án thái độ tham lam của Nghêu, Đề Hầu và Huyện Trìa.
– Thị Hến là một phụ nữ khôn ngoan, tinh tế, lanh lợi, khiến những người lơ đãng và tham lam bị quyến rũ. Bằng cách tự mình tiết lộ, tố giác lẫn nhau, cô ta vừa khéo léo lật mặt kẻ nào tới nhà, vừa khiến những kẻ rình rập và quấy rối bị nhấn chìm vào sự xấu hổ. Điều này giúp cô duy trì phẩm hạnh và vẻ thanh cao của mình.
Kết bài:
Trình bày sự phê phán, mỉa mai đối với từng nhân vật qua những cử chỉ, lời nói.
Tác giả mở ra trước mắt chúng ta hàng loạt thói hư tật xấu, thái độ tham lam và sự dối trá, sự hèn hạ kèm theo những ham muốn tầm thường của tầng lớp thống trị trong xã hội phong kiến thời đó.
2. Phân tích Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến hay nhất:
Trong nghệ thuật dân gian Việt Nam, tuồng đồ là một loại hình biểu diễn nghệ thuật độc đáo. Mặc dù đã ra đời từ lâu, vở tuồng “Nghêu, Sò, Ốc, Hến” vẫn giữ vị trí quan trọng trong lòng khán giả Việt Nam. Với lớp XIX, cũng là lớp cuối cùng của tác phẩm, đoạn trích “Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến” đã tiết lộ những thói hư tật xấu của một số tầng lớp trong xã hội xưa.
Trích đoạn “Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến” xoay quanh việc Sư Nghêu, Đề Hầu, Huyện Trìa đến nhà Thị Hến vào ban đêm để tư tình với thị. Thị Hến tận dụng thói háo sắc của ba người để chấm dứt mọi sự quấy rối, phiền hà.
Ngay từ đầu, qua lời nói của Thị Hến, ta có thể hình dung bối cảnh câu chuyện và tình huống sắp diễn ra. Sư Nghêu là tên sãi trọc phá giới. Vì quá khó chịu, bực tức với Huyện Trìa, Sư Nghêu, Đề Hầu, Thị Hến suy nghĩ về việc chơi ba người một vố thật đau nhằm “giữ tiết hạnh một đường cho toại”.
Khi trời đã về đêm, đường sá tối om, Sư Nghêu vẫn mò đến nhà Thị Hến. Đến cửa, hắn gọi vào “Này! Này, Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!”. Thị Hến đon đả, mời nước tìm cách trì hoãn. Thầy Nghêu đam mê sắc dục, đi ngược lại đạo đức, phẩm hạnh của kẻ tu hành, nên quyết “Kệ kinh chuông mõ trả cho cho chùa”, khuyên Thị Hến không nên phụ tấm lòng của hắn mà giao duyên kết đôi. Tà dâm, háo sắc là điều cấm kị đối với người tu hành. Vậy mà thầy Nghêu lại bất chấp lí lẽ, phá giới để đi theo quả phụ. Vừa mới nói xong thì có tiếng Đề Hầu kêu cửa, thầy Nghêu lộ bộ mặt hèn nhát. Sợ mọi việc bị bại lộ, hắn bảo Thị Hến chỉ cho mình chỗ trốn. Thị Hến cũng chẳng ngần ngại chỉ “Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó”, rồi hứa hẹn “Người về đã, sẽ vầy hai mặt”. Ngay lập tức, hắn chui xuống gầm phản.
Tên Đề Hầu vừa vào nhà, hắn liền buông lời trách móc:
“Ơn mỗ cứu cho bữa trước
Nay nường còn nhớ chưa quên?
Sao đã cùng ông Huyện kết duyên,
Mà vội phụ thầy Đề tình ngãi, (hử?)”
Đề Hầu gợi nhắc Thị Hến nhớ về việc đã giúp thị trong vụ án trước đó. Rõ ràng Thị Hến không quên bổn ân ấy, nhưng nhanh chóng kết duyên với ông Huyện, thể hiện lòng biết ơn thầy Đề. Thị Hến thông minh và khéo léo đáp lại, dùng lý do Huyện Trìa ra lệnh để bắt lòng nghe theo. Đề Hầu, dù đã có vợ nhưng vẫn không kham tiếng tán tỉnh phụ nữ khác. Dù người ta không hài lòng, hắn quyết “Vậy thì không mắng, vẫn tiếp tục”.
Khác hẳn với lúc hắn nói lời án tử với người tu phá giới, khi nghe tiếng Huyện Trìa bên ngoài, hắn hoảng sợ “Văn ngôn sắc biến! Sắc biến!/ Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh!”. Vì quá sợ bị phát hiện việc xấu, hắn ngay lập tức bỏ chạy.
Dù mang danh quan to nhưng Huyện Trìa không khác Đề Hầu hay Sư Nghêu chút nào. Vừa bước chân vào nhà Thị Hến, hắn đã giải thích lý do tới muộn. Huyện Trìa sử dụng lí do về thuế má, án từ và cả đường tối tăm để nói lý do hắn bị mụ Huyện giữ lại ở nhà. Sau một chút thổ lộ, Thị Hến lại dùng cách quen thuộc với tên Huyện Trìa. “Rầy có chú thầy tu rất chạ/ Hay đến nhà mà ve bà góa/ Đã xuất gia phá giới làm vơ,/ Thời luật pháp xử chi cho rõ?”.
Phán quyết đối với kẻ tu phá giới qua lời nói của Huyện Trìa lại nhẹ hơn nhiều so với lời phán của Đề Hầu – bằng roi. Điều này khiến thầy Nghêu rất mừng, hắn mỉm cười với Huyện Trìa. Hắn cho rằng Huyện Trìa là người cha thật thà của dân, trong khi Đề Hầu thì chỉ biết nói lời bậy. Đề Hầu biết mình bị Thị Hến chơi xỏ, lườm mắt ra ngoài và nhận lỗi. Cuối cùng, cả ba chạm mặt nhau, xấu hổ và thất vọng khi bị mụ đàn bà chơi khăm. Huyện Trìa lúc này không khác gì quan công đường, nói ai về nhà nấy, nhắc lòng từ nay phải “giữ tiết hạnh”.
Kết quả, cả ba người Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu đều phải thua trước sự thông minh và sắc sảo của Thị Hến. Có thể thấy, Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu dù có vị trí quan trọng trong xã hội, nhưng họ đều có bản tính xấu xa, háo sắc. Với những tình tiết gây cười cùng ngôn từ đơn giản, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của người dân, tác giả dân gian đã chỉ trích và châm biếm thói hư tật xấu của một số tầng lớp trong xã hội xưa. Đồng thời, vinh danh vẻ đẹp tinh thần của phụ nữ.
Thông qua vở tuồng “Nghêu, Sò, Ốc, Hến”, ta cũng cảm nhận sâu hơn về cuộc sống của người dân xưa. Những tiếng cười chua cay của đoạn trích “Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến” chắc chắn sẽ trở thành “món ăn tinh thần” không thể thiếu đối với mỗi người dân Việt Nam.
3. Phân tích Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến ngắn nhất:
Đoạn “Huyện Trìa, Đê Hầu, Thầy Nghêu mắc lỡm Thị Hến” là một minh chứng xuất sắc về việc tác giả dân gian phê phán và châm biếm những tật xấu, thói hư của nhân vật trong xã hội phong kiến. Bằng cách tạo ra những tình huống hài hước và các phản ứng dí dỏm của các nhân vật, tác giả đã tạo ra một không khí mang tính nhân văn sâu sắc và hài hước.
Thị Hến, với tư cách một người phụ nữ thông minh và mưu mẹo, đã lừa cả ba người đàn ông và khiến họ tự nhận lỗi lầm của mình. Điều này thể hiện sự mạnh mẽ và thông minh của phụ nữ trong xã hội phong kiến, nơi thường thịnh hành sự thống trị của nam giới.
Ngoài ra, phần cuối với sự thành công của Thị Hến trong mưu kế cũng là một ví dụ rõ ràng về trí tuệ và sự khôn ngoan của người phụ nữ Việt Nam. Cô đã tận dụng sự thông minh của mình để vượt qua ba người đàn ông ảnh hưởng và có quyền lực. Điều này cho thấy, không cần phải có quyền lực xã hội, phụ nữ vẫn có thể tự bảo vệ và tạo ra những thay đổi tích cực.
Tiếng cười trong đoạn này không chỉ mang lại niềm vui và sự thoải mái cho người đọc mà còn chứa đựng nhiều bài học sâu sắc về đạo đức, tính cách và tư tưởng của con người. Đây là một trong những yếu tố làm cho vở tuồng này trở thành một tác phẩm văn học nổi tiếng và mang tính nhân văn lớn lao.