Hình tượng người lính trong thơ ca kháng chiến chống Pháp giúp các em học sinh lớp 9 tham khảo, có thêm nhiều ý tưởng mới để ôn thi vào lớp 10 hiệu quả. Qua đó, giúp các em hiểu rõ hơn những công lao to lớn của những người lính trong công cuộc giải phóng đất nước.
Mục lục bài viết
1. Phân tích hình tượng người lính trong thơ ca kháng chiến chống Pháp đặc sắc:
Trong kháng chiến chống Pháp, vẻ đẹp của người lính thường gắn liền với vẻ đẹp giản dị. Họ sớm trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, niềm tin, tình yêu, hy vọng của cả một dân tộc. Nhà thơ Tố Hữu đã nói lên tình cảm của nhân dân đối với người lính như sau:
‘Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!”
(Cá nước – Tố Hữu)
Bộ đội Bác Hồ vốn là những người nông dân mặc quân phục với lý tưởng cao đẹp. Họ chiến đấu vì sự sống còn của quê hương, từ biệt bến nước sân đình, cánh đồng lúa. Hãy cùng nghe họ thổ lộ điều gì khi nói về quê hương của mình nhé.
‘Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá’’
(Đồng chí – Chính Hữu)
Họ để lại người mẹ già và người vợ trẻ một nắng hai sương. Tác giả Trần Hữu Thung đã thể hiện thành công hình ảnh người lính Vệ quốc quân qua ký ức của người vợ. Trong buổi tòng quân, người lính bịn rịn nhớ ra lời để dặn dò với vợ:
‘Ruộng mình quên cày xới
Nên lúa chín không đều
Nhớ lấy để mùa sau
Nhà cố làm cho tốt’
(Thăm lúa – Trần Hữu Thung)
Tuy nhiên, họ là những con người có ý chí và nghị lực phi thường, vượt qua mọi gian khổ, khó khăn trong chiến đấu.
Cuộc kháng chiến bắt đầu trong những ngày tháng gian truân, đau khổ, từ tiếng cuốc phá đường phố cho đến tiếng nhà bị đục để tiêu thổ cuộc kháng chiến. Hình ảnh người Vệ quốc quân đi vào bài thơ từ những ngày khó khăn ấy. Hầu hết các nhà thơ không làm thơ cho người lính bằng cách khoác cho họ tấm áo chiến binh dày dặn kinh nghiệm mà coi người lính như đồng đội, đồng chí. Họ hiểu rõ các anh chiến sĩ và nhìn thấy ở các anh vẻ đẹp của những năm tháng phấn đấu, tinh thần vượt khó, chịu đựng gian khổ. Và những bài thơ của ấy mang những nét đẹp chân thực và cảm động. Người lính là những người trực tiếp chịu đựng vô số hy sinh, gian khổ trong cuộc chiến một chọi một với kẻ thù. Hơn nửa thế kỷ sau, ít ai có thể đọc lại thơ Chính Hữu mà không cầm được nước mắt và thán phục trước sự kiên trì phi thường của những người nông dân trong bộ áo lính.
‘Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay’
(Đồng chí – Chính Hữu)
Những người lính ấy bao đêm phải chịu giá rét ngủ đêm ngoài rừng:
‘Trải lá cây làm chiếu
Manh áo phủ làm chăn
Trời thì mưa lâm thâm…’
(Đêm nay Bác không ngủ – Minh Huệ)
Hay
‘Ngày lại ngày đi, vắt với sương
Ngô bung xôi nhạt, nước lưng bương
Đêm mưa rình giặc, tai thao thức,
Mùa lại mùa qua, rét nhức xương ”
(Giết giặc – Tố Hữu)
Và:
‘Năm mươi sáu ngày đêm
Khoét núi, ngủ hầm,
Mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn…’
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)
Vì vậy, khi đọc bài thơ của nhà thơ
‘Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm’
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Nhưng trong những năm tháng khó khăn của cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân Pháp ấy, các chiến sĩ đã chia sẻ vui buồn sinh tử cùng nhau. Tình bạn giữa những người bạn ngày một bền chặt hơn. Anh hiểu tôi cũng như tôi hiểu anh. Tất cả chúng ta đều có chung niềm khao khát về gia đình và tổ ấm. Họ hiểu rằng mảnh đất quê hương cũng đang nhớ mình ở nơi xa xôi này:
‘Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính’
(Đồng chí – Chính Hữu)
Họ chia sẻ với nhau niềm khao khát cháy bỏng về mẹ ở quê nhà, nhớ mẹ và hiểu được tấm lòng của mẹ.
‘Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm
Bầm ơi có rét không bầm?
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non.
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần…”
(Bầm ơi – Tố Hữu)
Hoặc chia sẻ những điều sâu thẳm trong trái tim:
‘Đằng nớ vợ chưa?
Đằng nớ?
Tớ còn chờ độc lập!”
(Nhớ – Hồng Nguyên)
Khi gặp khó khăn hay đau ốm, người lính có thể có được sức mạnh thông qua sự hiện diện của những người bạn đồng hành của mình. ‘Thương nhau tay nắm lấy bàn tay’ (Đồng chí – Chính Hữu). Có vẻ như nhiều tâm tư có thể được truyền đạt bằng cách nắm tay mà không cần dùng lời nói. Khi nắm tay, dường như những người lính đang trao cho nhau sức mạnh, ý chí, niềm tin, sự ấm áp để sưởi ấm trái tim nhau, sưởi ấm cả những đôi chân không mang giày trong giá lạnh. Mối quan hệ tốt đẹp giữa những người chiến đấu vì cùng một lý tưởng rất cảm động, cao đẹp làm sao:
‘Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.’
(Đồng chí – Chính Hữu)
Đời người lính không chỉ có khói bom thuốc súng. Người lính còn có tâm hồn rộng mở, trong sáng cũng như có những khoảnh khắc, kỷ niệm đẹp đẽ, nên thơ. Trong rừng núi bao la tĩnh lặng, trong sương mù lạnh lẽo, chuẩn bị ra trận, các chiến sĩ vẫn tiếp tục tìm kiếm vẻ đẹp của trăng trong tâm hồn, và vẻ đẹp của trăng khiến họ cảm động, cảm tưởng trăng treo nơi đầu súng:
‘Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng, trăng treo.’
(Đồng chí – Chính Hữu)
Trong giây phút bình yên giữa hai trận chiến, những người lính thật hồn nhiên và trẻ trung.
‘Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.’
(Nhớ – Hồng Nguyên)
Như vậy mhững bài thơ kháng chiến chống Pháp đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh người lính. Năm tháng đã trôi qua và sẽ tiếp tục trôi qua, nhưng những bài thơ viết về người lính trong giai đoạn lịch sử vẻ vang này sẽ mãi mãi còn trong văn học dân tộc, trong lòng người dân Việt Nam, là niềm tự hào của toàn thể người dân Việt Nam.
2. Phân tích hình tượng người lính trong thơ ca kháng chiến chống Pháp ấn tượng:
Có thể nói “thơ văn là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”. Thơ chỉ có thể trở thành tượng đài của thời đại nếu nó thể hiện được “cái hồn của thời đại”. Thơ ca cách mạng đã làm được điều đó. Các nghệ sĩ đã tạo nên tượng đài bất tử về các chiến sĩ bộ đội cụ Hồ.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khai sinh. Đất nước bước vào thời kỳ độc lập, tự chủ nhưng cũng bước vào một thời kỳ lịch sử vẻ vang, huy hoàng nhưng vô cùng khó khăn, gian khổ. Từ năm 1945 đến năm 1975, đất nước xảy ra nhiều sự kiện quan trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc, trong đó có văn học, nghệ thuật. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ vô cùng vĩ đại và anh hùng. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc được tiến hành mạnh mẽ. Chiến tranh kéo dài, làm cho nền kinh tế nước nhà trở nên nghèo nàn, vì vậy mà điều kiện tiếp xúc với các nền văn hóa nước ngoài còn hạn chế.
Văn học thời kỳ này gắn liền với sứ mệnh cách mạng nên được đi kèm một cách toàn diện và đẹp đẽ với sứ mệnh cao cả. Văn học không chỉ phản ánh hiện thực cách mạng mà còn góp phần làm nên thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Hình ảnh người lính luôn là hình ảnh đẹp nhất trong văn học Việt Nam. Khi viết về những người chiến sĩ, là viết về những bàn tay đã tạo nên những hình thù đẹp đẽ và thân thương của sông nước Việt Nam. Đó là huyền thoại về người lính gắn liền với lịch sử chống giặc ngoại xâm của nước ta. Có lẽ không có quốc gia nào trên thế giới phải chịu nhiều mất mát và đau khổ trong chiến tranh như nước ta. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đã làm nên sự vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
“Kính chào Anh, con người đẹp nhất
Lịch sử hôn Anh, chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi”.
Các anh đến từ những vùng quê nghèo, gác lại nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ gia đình và tình cảm cá nhân để có một tình yêu lớn lao hơn, tình yêu quê hương với tinh thần hy sinh và cảm tử.
“Ôi! Tổ Quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi! Tổ Quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”.
Tình yêu quê hương của người lính đã trở thành một phần không thể tách rời của máu thịt, như hơi thở và cuộc sống của các anh. Nó mang lại cho các anh sự tự tin và sức và để vượt qua mọi cơn bão hoặc thử thách để đánh bại kẻ thù quân xâm lược.
“Những dũng sĩ đâm lê núi Thành
Mắt tìm thù sao bay rực rỡ
Rượt đuổi thù chân như chiến mã
Đâm chết thù sức núi dồn bay”
Còn gì có thể tự hào hơn khi các anh được gánh vác trên vai nghĩa vụ thiêng liêng?
“Nếu được làm hạt giống để mùa sau
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn làm người lính đi đầu
Trong đêm tối tim ta làm ngọn lửa”
Có thể nói lòng yêu nước là nét đẹp tiêu biểu của người lính. Lòng yêu nước của các chiến sĩ đã tô điểm thêm lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Đây chính là tinh thần trách nhiệm của một người con đối với đất nước.
“Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề cổ súng kề vai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa”.
Cuộc sống của các anh gian khổ thiếu thốn “áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá” nhưng lại không hề thiếu thốn tình người:
“Đồng đội ta là hớp nước uống chung
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết”
Chia nhau là để thêm vào và nhân lên tình yêu thương. Chỉ cần bắt tay qua cánh cửa kính vỡ thôi cũng đã thấy thân thương rồi. Chia sẻ bữa cơm gia đình mang lại bao sự ấm áp của tình người.
“Bếp Hoàng Cầm ta chạy giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình ấy”
Những người lính đã vượt qua gian khổ bằng tình người và sự chân thành như thế đó. Hình ảnh người lính có thể nói là hình ảnh thu nhỏ của vẻ đẹp dân tộc Việt Nam. Lòng yêu nước, lòng dũng cảm, sự lạc quan và tình yêu cuộc sống, tình đồng chí đồng đội thắm thiết. Vẻ đẹp ấy sẽ luôn tỏa sáng dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
3. Phân tích hình tượng người lính trong thơ ca kháng chiến chống Pháp ý nghĩa:
Mặc dù chúng ta không có lợi thế về vật chất trong các cuộc chiến tranh cách mạng chống Pháp nhưng không thể phủ nhận rằng chúng ta luôn là người chiến thắng, ngay cả khi những chiến thắng đó phải trả giá đắt, phải đổi lại rất nhiều xương máu. Mặc dù đúng là chúng ta nhận được nhiều sự quan tâm, động viên, hỗ trợ về vật chất và tinh thần từ bạn bè quốc tế nhưng sự giúp đỡ đó khó có thể bù đắp được những thiệt thòi nêu trên. Điều này có nghĩa là chúng ta vẫn phải chiến đấu chiến tranh cách mạng chủ yếu dựa vào sức mạnh của mình. Và một trong những “yếu tố sức mạnh” đó chính là lòng yêu nước – tinh thần lạc quan cách mạng. Lòng yêu nước này, tinh thần này xuất phát từ lòng đam mê lý tưởng, từ tình yêu quê hương bẩm sinh, chân thành, bộc phát, được rèn luyện qua quá trình đấu tranh và chiến thắng… Cũng chính những rung động tinh tế của tâm hồn đã được nuôi dưỡng bằng việc tiếp nhận những tác phẩm văn học mang màu sắc sử thi của thời đại, đặc biệt là những bài thơ, bài văn về người lính.
Sớm nhất là hình ảnh người lính Vệ quốc quân. Họ là những “bộ đội Cụ Hồ”, những người đầu tiên hưởng ứng lời kêu gọi cầm vũ khí, tham gia kháng chiến, trở thành những người tiên phong. Chỉ riêng cái tên của họ cũng đã gợi lên niềm tự hào, yêu mến. Họ là những người lính ít được đào tạo bài bản, không được đi học và đến từ nhiều hoàn cảnh khác nhau. Đây là minh chứng cho sự đoàn kết của cả nước, luôn biết chung tay bảo vệ lãnh thổ tổ quốc. Những người lính này trông giản dị, tầm thường và đôi khi thậm chí còn tội nghiệp nếu chúng ta bỏ qua phẩm chất anh hùng của họ:
‘Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài’
(Nhớ – Hồng Nguyên)
‘Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày’
(Đồng chí – Chính Hữu)
Tất nhiên, trong tinh thần của cả nước, nhất thiết phải có những thành viên “tinh nhuệ” trong đội ngũ này – những chiến sĩ là sinh viên, trí thức… Vì vậy, ngoài vẻ đẹp chân chất, mộc mạc, giản dị, người đọc còn thấy vẻ đẹp ở sự hào phóng, lịch lãm của sinh viên và trí thức, đặc biệt là những người đến từ thủ đô. Họ là những thanh niên ưu tú ‘xếp bút nghiên để theo việc đao cung’. Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh người lính trong tác phẩm ‘Ngày về’ của tác giả Chính Hữu lại có phần gợi nhớ đến người lính truyền thống. Sau này, trong thơ Chính Hữu, vẻ đẹp ấy biến mất và những người lính này biến thành những “đồng chí” cách mạng, nhưng xuất hiện với dáng vẻ tao nhã cùng với nét mộng mơ của tuổi trẻ, được hiện lên trong thơ của Quang Dũng, Hữu Loan; và luôn tưởng tượng trong lòng giấc mơ đẹp đẽ về niềm tin khải hoàn.
‘Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm’
(Tây tiến – Quang Dũng)
Những người lính ấy đến từ nước mặn đồng chua, để lại “Ít nhiều người vợ trẻ/Mòn chân bên cối gạo canh khuya” hay từ thành thị “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Ở nơi “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay “Người ra đi đầu không ngoảnh lại/Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”, họ đều chung một chiến hào và chiến đấu theo tinh thần “Ai có súng dùng súng/Ai có gươm dùng gươm” với tinh thần biến mọi thứ trong tay thành vũ khí:
Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh
(Nhớ – Hồng Nguyên)
Và nếm trải bao gian lao, vất vả:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
…
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ ngủ quên đời…”
(Tây Tiến – Quang Dũng)
“Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi ngủ hầm mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non”
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)
Nhưng bằng tinh thần dũng cảm của mình, các anh đã làm nên lịch sử và trở thành những nhân vật chính trong lịch sử của thời đại cách mạng, hy sinh bản thân vì sự nghiệp chung. Nhiều bài thơ, đoạn văn đã miêu tả một cách sống động và sâu sắc tinh thần kiêu hãnh và dũng cảm này.
“Gan không núng
Chí không mòn
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân nhắm mắt còn ôm”
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)
Một thời, thơ nằm trong ba lô người lính, trên báng súng, trên cánh tay người lính và trong trái tim của người lính. Thậm chí ngày nay, một người già ở vùng nông thôn còn có thể đọc thuộc lòng nhiều bài thơ về người lính và cách mạng. Đó là sự thật. Và sự thật này là kết quả của một hành trình sáng tạo và tiếp nhận chân thành đến từ trái tim.