Lưu biệt khi xuất dương đã thể hiện rõ nét một tâm hồn nhiệt huyết, sục sôi khí thế đấu tranh của người chiến sĩ nhưng không hề khô cứng, vẫn có đầy đủ các thần thái mơ mộng, lãng mạn của người thanh niên khát khao độc lập và sống cho lí tưởng cao cả. Phân tích hình tượng người chí sĩ trong Lưu biệt khi xuất dương như thế nào? Mẫu bài phân tích hình tượng người chí sĩ trong Lưu biệt khi xuất dương hay nhất?
Mục lục bài viết
- 1 1. Hướng dẫn phân tích hình tượng người chí sĩ bài thơ Lưu biệt khi xuất dương chi tiết nhất:
- 2 2. Phân tích hình tượng người chí sĩ trong Lưu biệt khi xuất dương sấu sắc nhất:
- 3 3. Phân tích hình tượng người chí sĩ trong Lưu biệt khi xuất dương ý nghĩa nhất:
- 4 4. Phân tích hình tượng người chí sĩ trong Lưu biệt khi xuất dương ấn tượng nhất:
- 5 5. Phân tích hình tượng người chí sĩ trong Lưu biệt khi xuất dương 10 điểm:
1. Hướng dẫn phân tích hình tượng người chí sĩ bài thơ Lưu biệt khi xuất dương chi tiết nhất:
1.1. Mở bài:
– Phan Bội Châu là người đã có ý tưởng giúp nước theo con đường này và ông có những đóng góp tích cực trong phong trào cách mạng thời kỳ đầu. Phan Bội Châu không chỉ được nhớ như là một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng trong nửa đầu thế kỷ 20 và là người gieo những mầm mống đầu tiên cho trào lưu sáng tác theo xu hướng trữ tình chính trị của Việt Nam lúc đó.
– Bài thơ Lưu biệt khi lên đường là một trong các sáng tác nổi bật thể hiện sự nhiệt tình, tráng chí to lớn và cao cả của người chí sĩ yêu nước.
1.2. Thân bài:
* Hình tượng người chí sĩ hiện lên trong quan điểm về chí làm trai của thời đại mới
– “Làm trai phải khác ở trên thế gian” là quan điểm nam nhi khi ở trên đời nên có lý tưởng cao cả, tráng chí bốn phương, hãy dũng cảm vượt qua ngoài những giới hạn và bó buộc khuôn khổ, mà làm việc trọng đại có tính lớn lao, hiển hách.
– “Há thì càn khôn tự dời “: Nam nhi phải nắm lấy và làm chủ vận mệnh của bản thân, tầm vóc sánh ngang với đất trời, có thể xoay chuyển được => Khẩu khí mạnh mẽ, quyết đoán và dũng cảm.
* Hình tượng người chí sĩ thông qua quan điểm về sứ mệnh và trách nhiệm của bậc nam nhi đối với thời cuộc
– “Trong khoảng trăm năm cần có ai “: Ý thức rõ và khẳng định nghĩa vụ của mình là phải vươn lên tranh đấu vì lý tưởng, làm người có trách nhiệm xã hội lớn lao để chấn hưng quốc gia. Làm sao cho xứng đáng với sự lựa chọn của tạo hoá và trời đã đem đến cho loài người một kỷ nguyên đầy chông gai.
– “Sau này mãi là không ai “: Tầm nhìn xa trông rộng, lo đến đời sau, vì con đường kháng chiến qua việc làm lay động được lớp thanh niên hôm nay và khích lệ họ bằng chính tráng chí, hoài bão của một nhà cách mạng tiên tiến.
* Hình tượng người chí sĩ hiện lên trong ý thức về vận mệnh quốc gia, dân tộc cùng cả nền Văn hiến đã rất vàng son nhưng giờ chỉ còn là hoài niệm
– “Non sông đã chết sống thêm nữa “: Việc mất nước, chính là sự nhục nhã của cả một dân tộc, dù là theo tư tưởng nào thì đối với mỗi một kẻ học sách nho hay một đấng nam nhi nỗi nhục đó càng đau và day dứt lên muôn phần.
– “Hiền thánh còn gì học cũng mãi “: Ý thức rõ rằng một nền Nho học lỗi thời, lạc hậu, có tiếng nhưng không có miếng, không hề thích hợp trong bối cảnh thời đại mới => Đau đớn xót xa, nhưng người chí sĩ không bao giờ nản lòng, mà giọng thơ rất mạnh mẽ, kiên quyết chấp nhận từ bỏ cái cũ, để đi tới một chân trời mới với tư thế hiên ngang dũng cảm, tinh thần tự do và khoáng đạt.
* Hình tượng người chí sĩ hiện lên với hình ảnh người lội biển tiến đến một chân trời mới để hoàn thành lý tưởng cao cả của cuộc đời
– Không gian bao la, rộng lớn được tạo nên bởi các hình ảnh hung vĩ của thiên nhiên từ “bể Đông” đến “muôn trùng sóng bạc”, điều ấy thể hiện những khát khao vô cùng mạnh mẽ của người chí sĩ yêu nước.
– Từng đợt sóng vừa phải thể hiện lửa chí sôi sục trong trái tim người yêu nước, đồng thời thể hiện sự khó khăn ở phía trước.
1.3. Kết bài:
– Lưu biệt khi xuất dương là một sáng tác có khuynh hướng trữ tình chính trị đời đầu, gắn với hình ảnh người chí sĩ cách mạng với vẻ ngoài uy nghi, tầm vóc sánh ngang với đất trời, tự tin, mạnh mẽ, vươn lên trên cơ sở một lý tưởng và tấm lòng cao cả – phục vụ và chiến đấu vì Tổ quốc, dân tộc theo con đường mới.
2. Phân tích hình tượng người chí sĩ trong Lưu biệt khi xuất dương sấu sắc nhất:
Lưu biệt khi xuất dương được Phan Bội Châu viết vào khoảng năm 1905, trước khi lên đường qua Nhật để từ giã bạn bè thân thiết, bài thơ này có ý nghĩa an ủi, động viên những người ra đi, cũng như khích lệ, củng cố lòng tin và tinh thần của lớp người còn lại về một tương lai tốt đẹp của dân tộc, với con đường cứu nước rộng mở, đầy triển vọng, cho dù Phan Bội Châu mới chỉ chập chững vài bước đi đầu tiên. Hình tượng người chí sĩ yêu nước hiện lên trước tiên là ở quan niệm của ông về chí làm trai trong thời đại mới, trong bối cảnh đất nước có nhiều biến đổi, thù trong giặc ngoài.
Khi đọc cả hai câu thơ thì ý thơ của chí làm trai lưu chung đều ở một chữ “lạ”, còn các chữ kia là để bổ nghĩa vào sự “lạ” ấy. Phan Bội Châu quan niệm rằng, đã là nam nhi, thì, khi còn ở trên đời phải có nhiều ước mơ, lý tưởng cao đẹp, vượt qua được cái tầm thường như cơm, áo, gạo, tiền, có bản lĩnh mưu toan việc to, làm những điều mà không ai dám làm, với sự quyết tâm cùng lòng tin sắt đá. Đặc biệt người nam nhi phải dám đưa mình bước ra từ chốn bình yên, nhỏ hẹp như “ao tù nước đọng”, phải vượt lên được bao nỗi lo được, mất mà vươn ra biển rộng để mưu đồ nhiều điều lớn lao hiển hách mới xứng đáng với hai chữ nam nhi. Mà như Xuân Diệu đã có một câu thơ rất hay “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tàn/Còn gì sầu le lói suốt trăm năm”, thì người nam nhi cũng vậy, cuộc đời ngắn ngủi 60 năm, ít nhất phải có một lần được vụt sáng, vĩ đại, chứ nếu cam chịu cuộc đời bình lặng, nhàm chán thì thật là uổng phí. Nhằm khẳng định và củng cố thêm cho chí nam nhi của bản thân Phan Bội Châu đã làm sáng tỏ ý bằng câu thơ tiếp theo “Đừng để càn khôn tự xoay chuyển”. Rằng nam nhi chí tại bốn phương, phải nắm lấy và làm chủ vận mệnh của bản thân mình đừng nên mặc kệ trời đất, kiến sanh, để vận mệnh như cái lá lăn theo dòng nước không rõ sẽ đi về đâu. Ý thơ chính là lời cổ vũ của Phan Bội Châu gửi đến lớp người trẻ hôm nay cần phải dũng cảm đặt ngang tầm vóc của mình với trời đất, với thiên nhiên để nắm giữ quyền chủ động định đoạt vận mệnh của cuộc đời, đặc biệt là thay đổi số phận bằng một khẩu khí hết sức mãnh liệt, tự tin và mạnh mẽ. Quan niệm về chí làm trai của Phan Bội Châu không phải là mới xuất hiện trong thơ ông, trước đây nó đã được ẩn hiện trong ca dao và thơ ca của hầu hết các thi sĩ đương thời, mặc dù không thực sự tương đồng song cũng có một số điểm chung ở nội dung và hình thức.
Sau cùng hình ảnh người chí sĩ hiện lên với hình ảnh người vượt biển cả đi đến một chân trời mới để theo đuổi lý tưởng cao đẹp của bản thân là phục vụ và cống hiến vì Tổ quốc với một tầm vóc vĩ đại có thể sánh ngang trời đất. Không gian rộng, bao la được tạo ra bởi các hình ảnh hung vĩ của thiên nhiên từ “bể Đông” đến “muôn trùng sóng bạc”, điều đó thể hiện rõ khát khao sống mãnh liệt của người chí sĩ yêu nước. Các đợt sóng vừa thể hiện tráng chí sôi sục trong trái tim yêu nước, lại thể hiện bao khó khăn thử thách phía trước, đồng thời cụm từ “tiễn ra khơi” cũng thể hiện sự tác động của thiên nhiên với tinh thần và lý tưởng cao đẹp của người anh hùng dân tộc. Người chí sĩ yêu nước đứng trước thiên nhiên bao la, đứng trước vận mệnh nhiều biến đổi, luôn mang trên vai tráng chí ngất trời, phong thái tự tin, hiên ngang ra đi tìm kiếm con đường mới vì Tổ quốc và dân tộc, đó còn là một hình ảnh đẹp đẽ hơn nữa.
Lưu biệt khi xuất dương là một sáng tác có khuynh hướng trữ tình chính trị đời đầu, nổi tiếng với hình ảnh người chí sĩ cách mạng với vẻ ngoài oai hùng, tầm vóc sánh ngang với trời đất, phong thái đầy tự tin, quyết đoán dựa trên cơ sở một lý tưởng và tráng chí cao đẹp – phục vụ và đóng góp xây dựng Tổ quốc, cứu quốc bằng con đường mới. Bài thơ đã khắc hoạ rõ nét một tâm hồn nhiệt huyết, sục sôi ý chí đấu tranh của người chí sĩ nhưng không hề khô cứng, trái lại còn có nhưng phong thái mơ mộng, lãng mạn của người thanh niên khát khao độc lập và sống với lý tưởng cao đẹp.
3. Phân tích hình tượng người chí sĩ trong Lưu biệt khi xuất dương ý nghĩa nhất:
Phan Bội Châu được biết đến là nhà thơ tiên phong trong lịch sử Việt Nam có ý tưởng dùng văn học để cổ động và tuyên truyền cách mạng. Ông cũng chính là người khơi nguồn cho thể loại văn học lãng mạn này. Trong đó, bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” là một tác phẩm tiêu biểu.
Đây là bài thơ được ngâm tại bữa cơm ngày Tết mà Phan Bội Châu đã tổ chức ở nhà mình để liên hoan với một số đồng chí, anh em trước khi lên đường sang Nhật Bản năm 1905. “Lưu biệt khi xuất dương” đã thể hiện ý tưởng to lớn, tinh thần và trách nhiệm của tác giả, thể hiện lòng hăng hái, quyết tâm cao trong buổi đầu tiên vượt biển lên đường ra nước ngoài để “mưu sự phục quốc”.
Ở hai câu cuối, bậc chí sĩ đã hiện lên với sự nhận thức sâu sắc vận mệnh đất nước, dân tộc và cả nền Nho học từng thời vàng son nhưng nay chỉ còn là dĩ vãng. Phan Bội Châu viết “Non sông đã chết”, cái chết ở việt nam là sự chết của cả dân tộc, đất nước trong đàn áp bởi bọn giặc ngang tàn. Bị khi đó những kẻ từng được xem là đầu não là xương sống, kinh mạch của một đất nước thì hèn nhát, sợ sệt, chỉ biết nghĩ đến sự giàu sang phú quý hào nhoáng của cá nhân mà lãng quên đi vận mệnh dân tộc, cam chịu sống đắng cay, tủi nhục dưới kiếp thuộc địa, còn con dân lại lủi thủi thở than. Một đất nước thiếu sự độc lập, một dân tộc không có người lãnh đạo có phải đã “chết” đi rồi không, chẳng khác nào một cái vỏ rỗng tuếch, các giá trị truyền thống, tinh hoa của dân tộc đã bị chà đạp dưới thời phong kiến. Bằng việc mất nước, chính là sự nhục nhã của cả một dân tộc, thậm chí là trong tư tưởng truyền thống thì với mỗi một kẻ học sách đạo hay một đấng nam nhi nỗi nhục đó còn đau và day dứt thêm nhiều lần. “Hiền thánh còn còn thì đọc cũng mãi”, một danh sĩ xuất thân Nho học, lại được sự dạy dỗ truyền thống từ khi còn nhỏ, việc nhìn nhận và ý thức rõ rằng một nền Nho học lỗi thời, lạc hậu, có tiếng nhưng không có miếng, không còn thích hợp trong bối cảnh thời đại mới chính là điều đau khó lòng có thể tha thứ. Việc tự nhận thức như thế, không ai bảo một người học đã tự tước đi cơ hội của bản thân rồi sẽ khởi đầu trở lại với quá khứ. Anh hùng nhưng ta có thể nhận ra rằng tuy lòng có xót xa, nhưng người chí sĩ không bao giờ lùi bước, mà giọng thơ vẫn mạnh mẽ, kiên quyết sẵn sàng bỏ thứ vô giá trị ấy để hướng về một chân trời mới với tư thế hiên ngang bất khuất, tinh thần tự tin và khoáng đạt.
Khi hình ảnh người chí sĩ hiện lên với hình ảnh người lội biển đi đến một chân trời mới để theo đuổi lý tưởng cao cả của dân tộc, chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc với một tầm vóc vĩ đại có thể sánh ngang trời đất. Không gian mênh mông, bao la được tạo ra bởi vô vàn hình ảnh hung vĩ của thiên nhiên từ “bể Đông” đến “muôn trùng sóng bạc”, điều đó thể hiện rõ khát khao chiến đấu mãnh liệt của người chí sĩ yêu nước. Các đợt sóng cũng thể hiện tráng chí sôi sục trong trái tim yêu nước, vừa thể hiện bao khó khăn thử thách phía trước, mặt khác cụm từ “tiễn ra khơi” còn thể hiện sự đồng tình của thiên nhiên với tinh thần và lý tưởng cao đẹp của người anh hùng dân tộc. Người chí sĩ yêu nước đứng trước thiên nhiên bao la, đứng trước thời thế nhiều biến đổi, nhưng chọn cho mình tráng chí ngất trời, phong thái hiên ngang đầy khí phách ra đi tìm kiếm con đường mới vì Tổ quốc và dân tộc, đó còn là một hình ảnh đẹp đẽ hơn nữa.
Lưu biệt khi xuất dương là một bài thơ hay, có nội dung và ý nghĩa sâu sắc, không chỉ thể hiện được khát vọng, quyết tâm lớn lao của một nhà hoạt động cách mạng thời đại mới, mà còn là lời động viên cổ vũ, khơi dậy truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, cũng như đánh thức niềm tin, lý tưởng và hoài bão cao đẹp của thanh niên Việt Nam trong hoàn cảnh đất nước có nhiều biến động. Có thể nói rằng Lưu biệt khi xuất dương là một trong những bài thơ theo khuynh hướng trữ tình cách mạng sớm đã khơi nguồn cho nền văn học cách mạng của việt nam lên đến đỉnh cao về sau.
4. Phân tích hình tượng người chí sĩ trong Lưu biệt khi xuất dương ấn tượng nhất:
Năm 1900, Phan Bội Châu đậu cử nhân kỳ thi tuyển Hương trường Nghệ Năm 1904 ông lập nên Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy dậy phong trào Đông du. Theo chủ trương của Duy Tân hội được chính ông thành lập, ông đã qua Nhật nhằm kiếm đường cứu nước. Nước thơ “Xuất dương lưu biệt” ông làm cho những chiến sĩ của buổi đầu tiên lên đường. Có thể nói bài thơ trên đánh dấu một mốc son chói lọi đối với sư nghiệp giải phóng dân tộc của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.
“Xuất dương lưu biệt” được sáng tác bằng chữ Hán, theo thể thơ Đường luật, là bài hát biểu lộ tư thế và quyết tâm mãnh liệt, cùng nhiều suy nghĩ cao đẹp mới lạ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.
Lấy cái hữu hạn “bách niên” của một đời người và sự vĩ đại “thiên tải” của lịch sử dân tộc. Phan Bội Châu đã tạo ra một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu lộ một quyết tâm và khát vọng của buổi lên đường. Vì thế, trên đường đấu tranh giải phóng dân tộc, trải qua biết bao gian khổ và hiểm nguy, ông luôn kiên cường, bất khuất.
“Ngã” là người: “tu hữu ngã” nghĩa là không có ai trong cuộc đời “một trăm năm” (bách niên trung) . Câu thơ khẳng định, biểu lộ lòng biết ơn sâu sắc của người xưa về việc nước còn nhà tan. “Thiên tải hậu” nghìn năm sau, là lịch sử của quốc gia và dân tộc nhưng cũng không có ai (ghi lại tên) cả? Hai câu 3 và 4 đối lại, lấy việc phủ nhận nhằm làm rõ sự khẳng định. Đó là một ý thơ sâu sắc về vai trò con người đối với lịch sử: phải gánh tất cả trọng trách do lịch sử giao. Ý tưởng tốt đẹp hơn là việc phát huy các đóng góp to lớn của nhiều danh nhân trong lịch sử:
Lấy cái hữu hạn “bách niên” của một đời người và sự vĩ đại “thiên tải” của lịch sử dân tộc. Phan Bội Châu đã tạo ra một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu lộ một quyết tâm và khát vọng của buổi lên đường. Vì thế, trên đường đấu tranh giải phóng dân tộc, trải qua biết bao gian khổ và hiểm nguy, ông luôn kiên cường, bất khuất.
Trong suốt bài thơ là một quan niệm chí làm trai của Phan Bội Châu. Đối với ông chí làm trai là phải làm nên nhiều việc lớn để có tên trong sử sách lưu truyền muôn đời. Vận mệnh của chí làm trai gắn chặt với vận mệnh của quốc gia. Với giọng điệu hào hùng trang trọng và lối sử dụng từ ngữ hấp dẫn lôi cuốn bài thơ vang lên như một bài hát hào hùng ca ngợi chí làm trai. Nó như tiếp sức cho Phan Bội Châu bước đi trên con đường cứu nước. Bài thơ mãi là tấm gương cho người đời luôn dõi theo.
5. Phân tích hình tượng người chí sĩ trong Lưu biệt khi xuất dương 10 điểm:
Năm 1900, Phan Bội Châu đậu trạng nguyên khoa thi Hương Trường Nghệ. Năm 1904, ông sáng lập nên Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905, ông dấy nên phong trào Đông Du. Trước khi đi Đông Du, sang Trung Hoa, Nhật Bản để cầu ngoại quốc với biết bao hoài bão lớn lao, ông đã để lại cho nhiều đồng chí bài thơ Xuất dương lưu biệt. Có thể nói, bài thơ trên đánh dấu một mốc son chói lọi của sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ văn Phan Bội Châu.
Xuất dương lưu biệt được sáng tác bằng chữ Hán, theo thể thơ Đường luật, là bài ca biểu thị tư thế, quyết tâm mãnh liệt, cùng bao suy nghĩ cao đẹp mới của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.
Tự hào bản thân là bậc nam nhi thì cứ sống cho ra sống, muốn làm nên điều mới lạ (sinh yếu hi kỳ) . Suy rộng hơn, là không sống bình thường, phải sống một cách bị động để rồi trời đất (vũ trụ) tự nhiên thay đổi một cách vô nghĩa, nhàm chán. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế thật cao đẹp về đức nam nhi, tin tưởng vào phẩm chất và khả năng của bản thân, mong muốn làm nên sự nghiệp lớn lao, thay đổi trời đất, như ông đã nói trong một bài thơ khác:
Đấng nam nhi muốn làm nên điều kỳ diệu ở trên thế gian ấy có một bầu máu nóng sôi sục: Tôi được trời ban cho bầu sữa cũng không đến nỗi nào, lúc thơ nhỏ xem truyện của cha mình, sau khi đến mấy chỗ nói người xưa phải chết mới trở thành đạo nhân, nước mắt chảy đìa rớt xuống ướt hết giấy vệ sinh. .. (Kỷ đầu thư).
Phần văn, tác giả nói đến việc sống và cái chết, nói về đường công danh. Đây là một ý tưởng hoàn toàn mới khi ta nhìn vào lịch sử dân tộc bao năm dài đen tối dưới sự cai trị của thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, đã bị ngoại bang chiếm đóng, đô hộ thì thân phận người việt vẫn là kiếp nô lệ, có sống cũng vô cùng tủi nhục. Trong hoàn cảnh đó có chết, có cố gắng trên con đường học vấn cũng vô ích. Sách vở của Thánh hiền liệu có ích gì trong sự nghiệp cứu nước cứu nhà:
Non sông đã chết sống thêm nhục,
Thánh hiền còn đâu học cũng hoài
Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ động lòng yêu nước và khơi gợi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu đã trở thành các bài hát cách mạng rất giàu tình cảm, sôi sục khí thế và có những hình ảnh đẹp nói về lòng yêu nước cùng lý tưởng anh hùng. Hai câu kết này là một ví dụ: Trường phong – ngọn gió dài và Khúc trùng bạch lãng – ngàn lớp sóng bạc đây là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sĩ cộng sản được thể hiện trong các câu: Nguyện cầu (cần đeo đuổi) và nhất tề phi (muốn vươn tới) .
Nguyên trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi
Cái không gian bao la ấy nhà chí sĩ muốn đi qua là Đông Hải. Nếu hai thanh trắc cuối câu 7 (Đông Hải khứ) khiến cho âm điệu co lại và chùng xuống thì hai thanh ở cuối câu 8 (vũ phi) cũng làm cho âm điệu vút lên, vọt lên. Âm hưởng hào hùng đó cũng góp phần thể hiện ý chí quyết tâm đi cứu nước cùa Phan Bội Châu. Ở đây nội lực, bản lĩnh đấu tranh cùng dân tộc của người lính có sự thống nhất, gắn bó và đoàn kết. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho người đời nhớ đến và khâm phục điều tiên sinh đã nói ở hai câu kết.
Xuất dương lưu biệt là áng thơ đầu tay nhiều tâm huyết. Bài thơ là niềm kiêu hãnh của nhà chí sĩ có lòng yêu nước thương nòi và sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp độc lập dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng và lộng lẫy nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách mạnh mẽ nhất tinh thần yêu nước cùng lý tưởng cao đẹp của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu.