Khắc họa hình tượng con sông Đà là một trong những thành công lớn trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Tuân. Ở đó, chúng ta có thể thấy một con sông vừa hung tợn ở thượng nguồn nhưng lại rất trữ tình hiền hòa nên thơ ở hạ nguồn. Dưới đây là bài văn phân tích hình tượng con sông Đà trong Người lái đò sông Đà hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Phân tích hình tượng con sông Đà trong Người lái đò sông Đà:
Nguyễn Tuân là nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam giai đoạn cách mạng anh hùng của dân tộc, tác phẩm của ông để lại ấn tượng vô cùng mạnh mẽ, bằng cách miêu tả đầy nhiệt huyết. Ông đã khắc họa nên hình tượng con sông Đà vùng núi Tây Bắc với những hình ảnh tươi trẻ và đầy thu hút, với cảm xúc kiên cường nhất của con người khi vượt qua dòng sông. Biết bao nhiêu giá trị nghệ thuật trong tác phẩm đã được thể hiện rõ nét qua hình tượng sông Đà với sự mạnh mẽ và đậm nét nét trữ tình.
Hình ảnh sông Đà trước hết được biểu hiện qua cái mạnh bạo, có phần hung ác với chi tiết vách đá ngăn, cùng dòng nước cuốn cuồn cuộn, làm cho người đọc cảm nhận sâu sắc hơn bao giờ hết, khiến ta tưởng chừng như đang ngồi trên chiếc thuyền ấy và tận mắt chứng kiến dòng sông đang sôi sục. Bên bờ sông cũng như trong lòng sông là những vách đá ngăn gồ ghề to lớn, nó khiến cho lòng sông trở nên hẹp lại, những hồi ức và huyền thoại vĩ đại như đang sống dậy. Hình ảnh đôi bờ nổi lên những viên đá rồi thêm chi tiết hươu có thể nhảy từ bờ bên này sang bờ bên kia mang lại cho người đọc cảm giác về sự thuần khiết của tự nhiên mang nét nguy hiểm. Thông qua đó tất cả những cảm xúc cảm nhận sống động của tác giả tại khoảnh khắc ấy được truyền đạt trọn vọn vẹn tới người đọc với sự mới mẻ và toàn diện hơn.
Trong từng câu văn, tác giả Nguyễn Tuân đã miêu tả một cách chi tiết và chân thực nhất về những cung bậc cảm xúc đang cuộn trào trong tâm hồn của tác giả. Vách đá được miêu tả với hình ảnh “đá bờ sông dựng vách thành” cùng với đó là cái hẹp của lòng sông với chi tiết:“ Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Sự so sánh vừa chính xác vừa lạ lùng trong câu văn“Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện” làm kinh động tâm hồn thần trí người đọc. Qua đó ta thấy được nỗi nhớ mong da diết và biết bao nhiêu giá trị cuộc sống và những cảm xúc sâu sắc đang ẩn hiện bên trong tác giả. Ông cảm thấy thực sự ấn tượng mạnh mẽ về hình ảnh :“ nước xô sóng, đá xô sóng, sóng xô, cuồn cuộn, luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ”…Với những câu văn truyền đạt theo kiểu móc xích gợi lên hình ảnh sông Đà dữ dằn như lúc nào cũng muốn nuốt trọn con người. Những chiếc hút nước tự nhiên ở quãng Tà Mường Vát được miêu tả với hình ảnh: “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên …” khiến con sông Đà như chính là loài thủy quái với những tiếng động ghê rợn khủng bố tinh thần con người.
Âm thanh thác nước sông Đà khiến nhà văn Nguyễn Tuân cảm giác mình như một nhạc trưởng của dàn giao hưởng đang chơi bài ca của thiên nhiên với nội dung chính về thác đá. Ban đầu là khúc “oán trách”, “khiêu khích” rồi lại “van xin” và cứ thế “giọng gằn mà chế nhạo”. Rồi đột ngột âm thanh đó được phóng to với không khí bừng bừng lên đến ở đỉnh điểm của sự phấn khích: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa … rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…” Đọc đến đây người ta vô cùng khâm phục trí liên tưởng phong phú của nhà văn Nguyễn Tuân như đang miêu tả âm thanh của trận động đất hay tai họa núi lửa phun trào. Cái cách lấy lửa để diễn tả nước, lấy rừng để diễn tả sông của Nguyễn Tuân thật đúng là phù hợp với chất ngông trong nghệ thuật lắm.
Với biện pháp nghệ thuật nhân hóa, đọc giả cảm nhận được những hình thù đá vô tri kia lại cũng giống như con người. Nguyễn Tuân đã điêu khắc bằng ngôn từ của mình để thổi hồn vào các thớ đá: “mặt hòn nào” cũng trông thật “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm” và “méo mó” -> Những hòn đá vô tri tưởng chùng lại mấy tên du côn của tự nhiên đang đứng ra bảo vệ địa bàn của mình và bầy bố ra ba trùng vi thạch trận. Ở trận trùng vi thạch thứ nhất: Đứa thì “hất hàm” đứa thì lại “thách thức” cộng với đó là “mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, các con sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền” Đến trùng vi thạch trận thứ hai thì chúng bài trận ở khắp nơi, thêm nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ngay tại phía hữu ngạn và cuối cùng là trùng vi thạch trận thứ ba, chúng sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng chết chỉ có luồng sống đặt ngay ở giữa. Sông Đà hiện lên như “kẻ thù số một của con người”.
Những thác nước cuồn cuộn ấy là sức mạnh khổng lồ nhưng cũng da diết lắm. Đúng như thế, dòng sông Đà vẫn mang trong mình tình cảm da diết và sâu sắc thậm chí là mang dáng vẻ trữ tình, đầy thư mộng, duyên dáng. Độ dài của dòng sông được miêu tả giống như mái tóc dài thướt tha của một cô gái, nó cũng rất mềm mại và thướt tha, chan chứa bao nhiêu cảm xúc cùng với đó là vẻ đẹp có chút huyền bí, đang tồn tại trong dòng kí ức xa xôi của con người. Những hình ảnh thể hiện sự trữ tình và sắc màu trong chính lời văn là những dẫn chứng một cách chi tiết về cảnh vật trong tác phẩm. Sự nhớ mong về ấn tượng mạnh mẽ trong cái ánh nhìn của chính nhà văn về con sông này – một sông Đà để lại nhiều tầng bậc suy nghĩ cho lòng người.
Dòng sông Đà từ trên tàu bay nhìn xuống “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo …” Màu sắc của dòng sông được chuyển đổi theo dòng thời gian, cụ thể là theo từng mùa “Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác hẳn với hai dòng sông Gâm và sông Lô với “màu xanh canh hến”. Đến mùa thu thì nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa …” Có thể thấy dòng sông Đà vào mỗi mùa lại mang một dáng vẻ với quyến rũ đầy tình tứ.
Sự cuốn hút của sông Đà, khiến tác giả say mê đến nỗi như thấy mình đang “sắp đổ ra sông Đà”. Nhà văn Nguyễn Tuân trầm lắng nhìn sông Đà tựa như nhìn lại một cố nhân với cảnh quan hai bên bờ gợi cảm: lá cây non nhú lên trên nương ngô, những con hươu đang bình thản “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” … Dòng sông Đà cũng gợi nhớ đến nỗi niềm sâu sắc trong chiều dài lịch sử dân tộc: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa… lặng tờ “như từ Lí, đời Trần, đời Lê”.
Con sông Đà trong những dòng văn của nhà văn tài ba Nguyễn Tuân không chỉ là một cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ, sắc sảo mà còn là nơi tác giả thể hiện tình yêu thương về quê hương của mình. Đồng thời cũng cho thấy cái tài tình khéo léo của ông nhận thấy vẻ đẹp trong cuộc sống ở nơi chỉ có rừng và núi mà thôi.
2. Phân tích hình tượng sông Đà hung tợn trong Người lái đò sông Đà:
Tùy bút Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa được nhiều bức tranh thiên nhiên sinh động, hấp dẫn của vùng núi rừng vừa hùng vĩ, hiểm trở, vừa tuyệt vời thơ mộng ở phía Tây Bắc của Tổ quốc. Dưới ngòi bút của nhà văn, miền đất này hiện lên thật tươi đẹp với những núi xa, núi gần miên man như trùng vi thạch trận, với những thung lũng vàng một màu lúa chín, với bao nhiêu loài hoa tỏa hương sắc. Nhưng tiêu biểu nhất, được nhà văn tập trung bút lực mô tả công phu nhất, phải kể đến hình ảnh con sông Đà hùng vĩ vừa hung bạo vừa nên thơ trong tùy bút Người lái đò sông Đà.
Người lái đò sông Đà là một trong những tùy bút xuất sắc nhất trong tập tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân, tập tuỳ bút cũng đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Tuân so với giai đoạn trước cách mạng. Trong Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật hình ảnh của người lao động kiên cường dũng cảm mà còn nổi bật một thiên nhiên đẹp đẽ.
Sông Đà được nhà văn xây dựng thành một “nhân vật” có mặt suốt từ đầu đến cuối thiên tùy bút, tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm này. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là một con sông vô tri, vô giác, mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động: thật phong phú và phức tạp. Tác giả đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Hai đặc điểm hung bạo và trữ tình này được nhà văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.
Cái hung bạo của con Sông Đà không chỉ ở những con thác, mà còn ở quang cảnh hùng vĩ với vẻ huyền bí, hoang sơ của dòng sông chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây Bắc. Như một nhà quay phim là lão luyện, vừa cho người xem thấy bao quát khung cảnh Sông Đà, thỉnh thoảng tác giả lại dừng lại, cho khán giả những pha “cận cảnh” thật tiêu biểu về sự hung dữ của sông này.
Đấy là những cảnh thật hiếm thấy như cảnh đá bờ sông dựng vách thành chỉ khi nào đến giữa trưa, mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, chỗ ấy mới có nắng. Cách so sánh trên tạo được ấn tượng khá đậm nét về vách đá dựng đứng với độ cao hun hút khôn cùng. Có chỗ vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Vì thế, dòng chảy của con sông bị thu lại rất hẹp: hẹp đến mức đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách, hẹp đến mức quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ấn tượng về độ và thẳng của vách đá bờ sông và dòng chảy nhỏ hẹp càng được tô đậm thêm qua một chi tiết tiêu biểu và lôi liên tưởng bất ngờ – thiên nhiên hoang sơ : với đời sống hiện đại của con người: Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa phụt đèn điện. Nhà văn chẳng những sử dụng thị giác mà còn kết hợp sử dụng cả giác quan khác với những so sánh thật mới mẻ, táo bạo. Vách thành dựng đứng gợi lên sự hiểm trở, hùng vĩ, lòng sông hẹp lại gián tiếp gợi được sức chảy ghê gớm, dữ dằn của thác lũ.
Tính chất hung bạo còn thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh sông với hợp sức của gió, của sóng và của đá. Dường như chúng phối hợp với nhau một cách chặt chẽ để tăng thêm sức mạnh uy hiếp, đe dọa con người: quảng mặt ghềnh Hát Loong, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, em cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được quả đấy. Ở đây, một phần câu văn như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn, gọn, diễn đạt bằng điệp từ, điệp cấu trúc và tăng tiến, tạo nhịp điệu khẩn trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển động của gió to và sóng lớn.
Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp: trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Vì nước bị hút quá mạnh nên phát ra những âm thanh được nhân cách hóa như nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc do nước bên trong và ngoài cống chênh nhau quá nhiều, phát ra tiếng kêu ặc ặc ghê sợ. Để tô đậm thêm sự nguy hiểm của cái hút nước, nhà văn đã phối hợp giữa “tả” và “kể”. Ở đây, yếu tố tự sự góp phần quan trọng kích thích trí tưởng của người đọc. Nếu câu văn nêu trên thiên về tả thì hai câu dưới thiên về kể: Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý… ở khuỷnh sông dưới.
Sông Đà còn hung bạo ở những thác nước. Nhiều thác nước như bày sẵn thế trận, sẵn sàng chặn đánh, tiêu diệt người lái đò, lái mảng, đặc biệt đối với những ai xuôi dòng, ở những nơi này, Sông Đà được mô tả như có cả một bầy thủy quái vừa hung hăng, bạo ngược, vừa nham hiểm, xảo quyệt. Lúc thì thác nước khiêu khích, chế nhạo, khi thì hò la, gầm thét, như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa, đang phá luống rừng nứa, rừng lứa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Thác nước càng được nhân thêm sức mạnh, sức công phá, tăng thêm mối nguy hiểm đối với nhà đó vì sự góp mặt của hàng ngàn tảng đá to, nhỏ. Mỗi hòn đá được khắc họa như một quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì mai phục nơi đây để bày thạch trận trong lòng sông. Mỗi lần thấy một con thuyền nào nhô vào đường ngoặt sóng là chúng lập tức nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Tác giả để đứng dậy và thổi sự sống vào cho những hòn đá vô tri giác, khiến người đọc hình dung chúng cũng táo tợn, hung bạo như một lũ giặc điên cuồng.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng bạn đọc chưa bao giờ quên phong cách sáng tác “ngông” độc đáo của Nguyễn Tuân cùng tùy bút và hình ảnh con sông Đà. Tác phẩm đã đóng góp không nhỏ vào nền văn học Việt Nam và được nhiều thế hệ con người đón nhận.
3. Phân tích hình tượng sông Đà trữ trình trong Người lái đò sông Đà:
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp và cuộc sống. Và tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một tùy bút như vậy. Nổi bật lên trong tác phẩm là hình tượng con sông Đà với hai nét tính cách tiêu biểu, đó là hung bạo và trữ tình, thơ mộng. Với sự hiểu biết sâu, gắn bó và niềm đam mê cháy bỏng bừng vào trang văn, Nguyễn Tuân đã biến dòng sông của tự nhiên thành dòng sông nghệ thuật, thành một sinh thể có tâm hồn tính cách, trước hết là những đẹp thơ mộng, trữ tình được tái hiện qua ngòi bút của Nguyễn Tuân làm say mê bao trái tim bạn đọc.
Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập “Sông Đà”, là kết quả chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân đến vùng núi Tây Bắc để khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người và tìm kiếm “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong chính cuộc sống thường nhật. Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc họa những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới qua hình ảnh người lái đò sông Đà.
Nếu vẻ đẹp của sông Đà chỉ dừng lại ở sự hung bạo thì chẳng có gì đáng để tác giả yêu quý, chính dòng sông này lại mang vẻ đẹp khác biệt vô cùng thơ mộng, trữ tình làm người ta xao xuyến: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đến đây, Nguyễn Tuân giúp bạn đọc hình dung ra con sông Đà như một người thiếu nữ của Tây Bắc với mái tóc tuôn dài giữa núi rừng mộng mơ mang màu sắc thay đổi theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.
Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ, bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”.
Vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn đen xen cùng thơ mộng, trữ tình đã làm cho Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông ấy với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, một tình yêu thiên nhiên đất nước sâu nặng. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu, tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã giúp Nguyễn Tuân tạo nên những trang văn đẹp hiếm có qua ngôn từ uyên bác và những liên tưởng thú vị.
Qua phân tích trên, có thể thấy, Nguyễn Tuân đã khắc họa hình ảnh con sông Đà ở đây với những nét đẹp đầy thơ mộng, khác hẳn con sông Đà nơi thượng nguồn hung bạo.
THAM KHẢO THÊM: