Tuyên ngôn độc lập là bản tuyên ngôn giá trị khẳng định độc lập chủ quyền của toàn dân tộc. Đoạn cuối Bản Tuyên ngôn độc lập là một bản tuyên ngôn hùng tráng, thể hiện ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập của dân tộc Việt Nam. Dưới đây là bài phân tích đoạn cuối (đoạn kết) của bản Tuyên ngôn độc lập.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích đoạn kết, đoạn cuối của bản Tuyên ngôn độc lập:
- Mở bài:
Tuyên ngôn độc lập là một luận cương chính trị xuất sắc, là bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Thân bài:
Lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở cuối tác phẩm là sự kết tinh sáng ngời của lòng yêu nước, ý thức tự lực, tự cường và khát vọng độc lập, tự do cho dân tộc.
Lập luận vô cùng thông minh, sắc bén khi viện dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ mở đầu tác phẩm, tạo cơ sở cho lập luận khẳng định quyền được hưởng độc lập, tự do là quyền chính đáng, phù hợp với đạo đức và pháp luật của người dân Việt Nam.
Nền độc lập, tự do có được hôm nay là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài, bền bỉ và đoàn kết của toàn đảng, toàn dân.
- Mục đích của tuyên bố:
Lời tuyên bố hùng hồn, hùng hồn khẳng định sức mạnh, quyết tâm của toàn dân tộc trong công cuộc bảo vệ, giữ vững nền độc lập thiêng liêng mà chúng ta đã tốn biết bao công sức, hy sinh mới giành được.
Câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với thực dân Pháp và các thế lực phản cách mạng tàn bạo đang âm mưu xâm lược, thôn tính Việt Nam một lần nữa.
Lời nói của Bác đã khơi dậy lòng yêu nước, ý thức đoàn kết và sức mạnh toàn dân, toàn quân bảo vệ nền độc lập và chính quyền mới thành lập.
- Kết bài:
Bằng lập luận chặt chẽ, lập luận có sức thuyết phục, lời lẽ đanh thép, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mạnh mẽ tuyên bố nền độc lập, tự chủ trong niềm tự hào, khẳng định sức mạnh và quyết tâm của toàn dân trong việc bảo vệ và duy trì nền độc lập đó.
2. Phân tích đoạn kết của bản Tuyên ngôn độc lập hay nhất:
Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận xuất sắc, là bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn không chỉ khẳng định quyền độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn mạnh mẽ tuyên bố với toàn thế giới về nền độc lập, chủ quyền đáng được tôn trọng đó. Trong phần cuối của tác phẩm, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, thực chất đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tinh thần và sức lực, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở cuối tác phẩm là sự kết tinh sáng ngời của lòng yêu nước, ý thức tự lực, tự cường và khát vọng độc lập, tự do cho dân tộc. Người khẳng định “Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập”, đúng vậy, Việt Nam cũng như bao dân tộc yêu nước, yêu chuộng hòa bình khác trên thế giới như Pháp, Mỹ, chúng ta có quyền hưởng tự do. Lập luận của Người vô cùng thông minh, rõ ràng và sắc bén khi viện dẫn hai bản tuyên ngôn của nước Pháp và nước Mỹ ngay từ đầu tác phẩm, từ đó có cơ sở để lập luận rằng quyền được hưởng độc lập, tự do là quyền chính đáng, phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật Việt Nam.
Nền độc lập, tự do hôm nay là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, bền bỉ, đoàn kết của toàn Đảng, toàn dân “Một dân tộc đã anh dũng đấu tranh chống ách nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm, một dân tộc đã dũng cảm đứng về phía chống đồng minh phát xít bao nhiêu năm, dân tộc phải được tự do, quốc gia phải được độc lập.” Lời tuyên bố mạnh mẽ, hùng hồn: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tinh thần và sức lực, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” đã khẳng định sức mạnh kiên định và quyết tâm mạnh mẽ sức mạnh của cả dân tộc trong cuộc công cuộc bảo vệ và giữ vững nền độc lập thiêng liêng mà chúng ta đã phải đánh đổi biết bao gian khổ, hy sinh mới giành được.
Câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với thực dân Pháp và các thế lực phản cách mạng tàn bạo đang âm mưu xâm lược, thôn tính Việt Nam một lần nữa. Qua lời tuyên bố của Bác đã khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và sức mạnh của toàn dân, toàn quân trong công cuộc bảo vệ nền độc lập và chính quyền mới được thành lập.
Như vậy, bằng lập luận chặt chẽ, lập luận thuyết phục, ngôn ngữ chặt chẽ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố mạnh mẽ quyền độc lập tự chủ trong niềm tự hào, đồng thời khẳng định sức mạnh và ý chí quyết tâm của Nhân dân của cả dân tộc trong việc bảo vệ và giữ vững nền độc lập ấy.
3. Phân tích đoạn cuối của bản Tuyên ngôn độc lập ý nghĩa nhất:
Cách mạng Tháng Tám thành công. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, trước hơn nửa triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”. Văn kiện này có ý nghĩa lịch sử to lớn: tuyên bố đánh đổ vĩnh viễn chế độ thực dân – phong kiến ở nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
Kết thúc bản “Tuyên ngôn độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, thực tế đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và sức lực, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Lời văn đanh thép, hùng hồn, kết tinh xuất sắc những nội dung cơ bản của “Tuyên ngôn độc lập”.
Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập” vì điều đó phù hợp với đạo lý và pháp luật. Đất nước và con người Việt Nam cũng như mọi quốc gia, dân tộc và con người đều “sinh ra có quyền bình đẳng, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. (“Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ” 1776).
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập” vì “mọi người sinh ra tự do, có quyền bình đẳng và phải luôn luôn được hưởng tự do, bình đẳng về quyền” (“Tuyên ngôn Nhân quyền”).
Từ quyền con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “mở rộng”, nói đến quyền tự quyết của các dân tộc: “Các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. ” Quyền đó là không thể chối cãi và thiêng liêng. Sau hơn 80 năm Pháp thuộc, bản tuyên bố “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập” thể hiện niềm tự hào dân tộc và khát vọng độc lập, tự do của đất nước và dân tộc Việt Nam.
Với sự thành công của Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời “và thực chất trở thành một nước tự do, độc lập”. Đó là một thực tế lịch sử không thể phủ nhận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần tội ác man rợ về kinh tế và chính trị của thực dân Pháp đối với dân tộc ta trong suốt 80 năm. Chúng áp bức, bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, “làm cho dân ta nghèo nàn, túng thiếu, nước ta điêu tàn”. Thực dân Pháp tước đoạt tự do của ta, dìm đồng bào ta trong máu và nước mắt trong đêm trường nô lệ: “Chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học Chúng trực tiếp giết hại những người yêu nước, yêu nước Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu xương máu”,… Thực dân Pháp chỉ trong vòng 5 năm (1940-1945) đã hai lần bán nước ta cho Nhật. Pháp, Nhật gây ra nạn đói năm Ất Dậu (1945) làm hơn hai triệu đồng bào ta thiệt mạng. Trước khi tháo chạy (09-3-1945), thực dân Pháp đã “không ngừng sát hại hầu hết tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.
“Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và trên thực tế đã trở thành một nước tự do và độc lập.” Vâng, đó là một sự thật lịch sử không ai có thể phủ nhận. Cách mạng Tháng Tám nổ ra và thành công, “nhân dân ta lấy nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không lấy từ tay Pháp”. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời khi ba kẻ thù bị lật đổ và đánh bại: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Độc lập, tự do là kết quả đấu tranh và cách mạng lâu dài của dân tộc ta:
“Một dân tộc đã anh dũng đấu tranh chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm, một dân tộc đã nhiều năm anh dũng đứng về phía Đồng minh chống phát xít, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”.
Sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một sự thật lịch sử, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mạnh dạn và hùng hồn tuyên bố: “Tuyên bố cắt đứt hoàn toàn quan hệ nhân dân với Pháp, xóa bỏ mọi hiệp ước mà Pháp đã ký kết, trở lại Việt Nam, xóa bỏ mọi quan hệ ưu đãi của Pháp ở Việt Nam.
Độc lập, tự do là khát vọng, ý chí của Tổ quốc và dân tộc Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Lời tuyên bố ấy như một lời thề thiêng liêng làm rung động lòng người: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và sức lực, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Hàng triệu người Việt Nam “quyết đem tất cả tinh thần, sức lực, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Lời nói của Hồ Chí Minh là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với bọn thực dân Pháp đang âm mưu chiếm lại Việt Nam, đồng thời kêu gọi toàn dân Việt Nam sẵn sàng chiến đấu quyết tử cho độc lập, tự do. Ba mươi năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã thể hiện một cách hùng hồn lời tuyên bố hùng hồn ấy. Đó là khát vọng, là ý chí sắt đá vì độc lập, tự do của Tổ quốc, của dân tộc ta. Một lần nữa Người tuyên bố: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”. (“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” 19-12-1946).
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn độc lập”: Những chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc ta đã đi qua rất đỗi tự hào: Cách mạng Tháng Tám – Chiến thắng Điện Biên hào hùng – Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng – Non sông liền một dải, chú Năm sum họp một nhà…
“Tuyên ngôn độc lập” xứng đáng là một “bản anh hùng ca muôn thuở”. Nơi đây đã tiếp nối truyền thống vẻ vang “Nam quốc sơn hà”, “Bình Ngô đại cáo”. Đó là câu nói Non Nước cao cả, thiêng liêng, thể hiện sâu sắc tư tưởng lớn: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, thể hiện ý chí, sức mạnh Việt Nam.
Đọc đoạn cuối của “Tuyên ngôn độc lập”, chúng ta càng thêm tự hào về nền độc lập, tự do mà dân tộc ta đã giành được bằng xương máu của biết bao thế hệ anh hùng, liệt sĩ.
4. Cần trình bày những gì khi phân tích đoạn cuối của bản Tuyên ngôn độc lập?
Đoạn cuối Bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, tuy chỉ vỏn vẹn 3 câu văn ngắn gọn, nhưng lại mang ý nghĩa vô cùng to lớn, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập của dân tộc và khẳng định niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Về nội dung:
- Khẳng định độc lập, tự do: Câu đầu tiên “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập” là lời khẳng định mạnh mẽ về chủ quyền quốc gia của Việt Nam. Sau bao nhiêu năm bị áp bức, nô lệ, nay nhân dân ta đã giành được độc lập, tự do, trở thành chủ nhân của đất nước mình.
- Quyết tâm bảo vệ độc lập: Câu thứ hai “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” thể hiện quyết tâm sắt đá của nhân dân ta trong việc bảo vệ độc lập, tự do vừa giành được. Bất kỳ kẻ thù nào xâm lược, chúng ta sẽ kiên quyết chống trả, dù phải hy sinh tất cả.
- Niềm tin vào tương lai tươi sáng: Câu cuối cùng “Dân tộc Việt Nam quyết tâm! Bất kỳ kẻ nào dám xâm phạm đến độc lập, tự do của chúng ta, chúng ta sẽ quyết tâm đánh trả đến cùng!” thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước. Với tinh thần đoàn kết, kiên cường, anh dũng, nhân dân ta nhất định sẽ bảo vệ được độc lập, tự do, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh.
Về nghệ thuật:
- Ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu: Sử dụng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, phù hợp với trình độ nhận thức của đông đảo quần chúng nhân dân, giúp truyền tải thông điệp một cách hiệu quả.
- Giọng điệu dõng dạc, hào hùng: Giọng điệu dõng dạc, hào hùng thể hiện khí phách anh hùng của dân tộc Việt Nam, khơi dậy lòng tự hào dân tộc và ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập.
- Sử dụng biện pháp tu từ: Sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ, nhấn mạnh quyết tâm bảo vệ độc lập của dân tộc.
Kết luận:
Đoạn cuối Bản Tuyên ngôn độc lập là một bản tuyên ngôn hùng tráng, thể hiện ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập của dân tộc Việt Nam. Nó là nguồn động lực to lớn cho nhân dân ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
THAM KHẢO THÊM: