Dường như qua bài Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu, chúng ta đang nhìn lại những trang sử vẻ vang, hào hùng của dân tộc và được củng cố thêm lòng tự hào, tự tôn. Đồng thời tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi đây là một bài phú viết bằng chữ Hán, thuộc thể loại hay nhất trong văn học trung đại Việt Nam. Dưới đây là một số mẫu bài văn phân tích đoạn thứ ba của Phú sông Bạch Đằng.
Mục lục bài viết
- 1 1. Dàn ý phân tích đoạn thứ ba của Phú sông Bạch Đằng hay nhất:
- 2 2. Dàn ý phân tích đoạn thứ ba của Phú sông Bạch Đằng ý nghĩa nhất:
- 3 3. Phân tích đoạn thứ ba của phú sông Bạch Đằng hay nhất:
- 4 4. Phân tích đoạn thứ ba của phú sông Bạch Đằng ngắn gọn nhất:
- 5 5. Phân tích đoạn thứ ba của phú sông Bạch Đằng ý nghĩa nhất:
1. Dàn ý phân tích đoạn thứ ba của Phú sông Bạch Đằng hay nhất:
1.1. Mở bài:
Về Trương Hán Siêu: là người tính cách cương trực, thẳng thắn, học rộng hiểu sâu, được vua và thần dân nhà Trần tin cậy
Nêu khái quát về thể phú: Hình thức đối đáp chủ – khách được sử dụng để thể hiện nội dung, có vần hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi.
Giới thiệu khái quát về bài thơ Bạch Đằng Giang phú: hoàn cảnh ra đời, nội dung.
1.2. Thân bài:
Phân tích:
Lời suy ngẫm, bình luận của các bô lão về những chiến công trên sông Bạch Đằng:
‐ Nguyên nhân thắng lợi: Bởi vì đất trời ban cho địa hình hiểm trở, nhân tài giữ được cuộc điện an, đại vương coi thế giặc nhàn.
‐ Nhấn mạnh ba yếu tố tạo nên thắng lợi là thiên thời – địa lợi – nhân hòa, trong đó quan trọng bậc nhất là yếu tố của con người được đề cao.
‐ Gợi liên tưởng đến Trần Quốc Tuấn và so sánh với cổ nhân
‐ Đề cao sức mạnh và khả năng của con người, đặc biệt là các nhà lãnh đạo. Thể hiện giá trị nhân văn của tác phẩm.
Giá trị nội dung:
‐ Nội dung bài thơ thể hiện Lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc về truyền thống anh hùng bất khuất và đạo lý nhân văn.
‐ Tư tưởng nhân văn cao cả, đẹp đẽ.
‐ Đề cao và phát huy vai trò của con người, đạo lý chính nghĩa
‐ Cảm xúc trước dòng sông Bạch Đằng ở thời điểm hiện tại.
Giá trị nghệ thuật:
‐ Cấu tứ của bài thơ tuy đơn giản nhưng lại hấp dẫn người đọc
‐ Bố cục của bài thơ chặt chẽ
‐ Hình tượng nghệ thuật: Sinh động, vừa liên hệ trực tiếp về hình thức, vừa có ý nghĩa khái quát, triết lí.
– Ngôn ngữ thể hiện sự trang trọng, hào sảng, trầm lắng, gợi cảm.
→ Bài phú là đỉnh cao về nghệ thuật thể phú của văn học trung đại Việt Nam
1.3. Kết bài:
Nêu khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
Nêu cảm nhận của bản thân về đoạn trích; Cũng như giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của nhà thơ gửi gắm vào bài thơ.
2. Dàn ý phân tích đoạn thứ ba của Phú sông Bạch Đằng ý nghĩa nhất:
2.1. Mở bài:
Giới thiệu khái quát về tác giả:
‐ Trương Hán Siêu (?-1354) tên tự là Thăng Phủ, hiệu là Độn Tẩu.
‐ Sinh thời, các vua Trần tin dùng và nhân dân tôn vinh ông; Ông làm quan Hàn lâm viện, từng là môn khách của Trần Hưng Đạo.
‐ Trương Hán Siêu là người có học rộng. Ông đã đem hết tri thức và tâm huyết của mình để phục vụ đất nước. Là một người thẳng thắn và bộc trực, cuộc đời làm quan của ông có nhiều thăng trầm.
Giới thiệu khái quát về tác phẩm:
‐ Bạch Đằng là một nhánh của sông Kinh Thầy, nằm giữa vùng đất Quảng Ninh và Hải Phòng.
‐ Nơi đây từng in đậm nhiều chiến công hiển hách: Ngô Quyền đánh quân Nam Hán (938), Lê Hoàn đánh quân Tống (981), Hưng Đạo Vương đánh quân Nguyên Mông (1288).
‐ Trương Hán Siêu có cảm hứng viết về dòng sông này trong một lần đi dạo: vừa tự hào vừa hoài niệm, nhớ lại tiếng xưa hào hùng. Phú sông Bạch Đằng được viết bằng cảm hứng hào hùng, bi tráng
2.2. Thân bài:
Lời suy ngẫm, bình luận của các bô lão về những chiến công:
‐ Nguyên nhân thắng lợi: đất trời ban cho nơi hiểm trở, có nhân tài mà giữ được đất nước thanh bình, cùng vua bình tĩnh, tự tin không sợ hãi trước thế giặc mạnh.
‐ Nhấn mạnh ba yếu tố tạo nên thắng lợi là thiên thời – địa lợi – nhân hòa, trong đó vai trò của con người được đề cao.
‐ Gợi liên tưởng đến Trần Quốc Tuấn và so sánh với cổ nhân
‐ Đề cao sức mạnh và khả năng của con người, đặc biệt là các nhà lãnh đạo. Thể hiện giá trị nhân văn của tác phẩm.
2.3. Kết bài:
Khái quát nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:
‐ Giá trị nội dung: Thể hiện lòng tự hào dân tộc và lòng yêu nước, vẻ vang truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc, truyền thống đạo lý nhân nghĩa của dân tộc; chứa đựng tư duy nhân văn cao cả, cao đẹp ủng hộ vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.
‐ Đặc điểm nghệ thuật: bố cục chặt chẽ, dựng hình sinh động; xây dựng nhân vật hoạt hình mang ý nghĩa triết học đặc sắc; Ngôn ngữ ngắn gọn, trong sáng, hào hùng.
‐ Mở rộng: Sông Bạch Đằng là một đề tài và nguồn cảm hứng lớn trong văn học cùng với nhiều tác phẩm nổi tiếng khác.
3. Phân tích đoạn thứ ba của phú sông Bạch Đằng hay nhất:
Trương Hán Siêu là người có học thức uyên bác, sâu rộng, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều và có nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông. Các tác phẩm của ông thường thể hiện tình yêu quê hương đất nước và lòng tự hào dân tộc. “Phú sông Bạch Đằng” là một tác phẩm như thế.
Phú là một thể loại văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục. Phú thương đậm chất trữ tình. Bạch Đằng giang phú được viết bằng chữ Hán theo thể đối, gieo vần, song thất lục bát, tạo nên một quy phạm chuẩn mực rất rõ ràng trong thể phú. Bài thơ ca ngợi dòng sông lịch sử Bạch Đằng.
Tong phần ba của tác phẩm, nhà thơ đã có những suy ngẫm và bài học quý giá. Những thắng lợi vẻ vang ấy một phần là nhờ địa thế tức là thiên, quan trọng nhất là nhờ những bậc hiền tài đã cống hiến, hy sinh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
“Quả là trời đất cho nơi hiểm trở
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an”.
Không chỉ vậy, Trương Hán Siêu còn ca nhợi người anh hùng vĩ đại thuở “bình Nguyên” oanh liệt Hưng Đạo Vương:
“Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng
Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn”.
Kết thúc bài phú, tác giả một lần nữa ca ngợi công lao giữ gìn và bảo vệ đất nước của hai vị vua Trần:
“Anh minh hai vị thánh quân
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh”
Hai vị “thánh nhân” được nhắc đến ở đây là Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, những người đã lãnh đạo cuộc Kháng chiến lần thứ 2 và thứ 3 đánh bại quân Nguyên-Mông xâm lược. Họ là những vị vua sáng suốt, anh minh, giàu lòng yêu nước, khơi dậy sức mạnh đoàn kết dân tộc để dạy bảo cho thế hệ mai sau những bài học bảo vệ đất nước.
Qua bài “Bạch Đằng giang phú”, Trương Hán Siêu đã mượn hình ảnh sông Bạch Đằng, nơi để lại bao dấu tích lịch sử hào hùng, để thể hiện tình yêu quê hương đất nước. Từ đó, ông thể hiện niềm tự hào dân tộc, đồng thời như một lời nhắc nhở các thế hệ mai sau cần tiếp nối truyền thống cha ông để lại.
4. Phân tích đoạn thứ ba của phú sông Bạch Đằng ngắn gọn nhất:
Trương Hán Siêu quê ở Thái Bình, tự là Thăng Phủ. Ông là người giữ nhiều chức vụ quan trọng dưới thời nhà Trần, do học vấn uyên thâm nên được nhiều học trò và nhân dân kính trọng, đặc biệt là các vua quan nhà Trần. Khi đó ông được truy tặng tước Thái Bảo và sau khi mất được thờ ở Văn Miếu.
Ông làm thơ, văn nhưng để lại ít tác phẩm, nhưng trong số những tác phẩm ông sáng tác có bài “Phú sông Bạch Đằng”. Tác phẩm cũng được coi là tác phẩm hay nhất của văn học trung đại.
Bài thơ được chia làm bốn phần: phần đầu là những cảm xúc rất trang trọng của nhà thơ đối với dòng sông Bạch Đằng; phần thứ hai là lời của các bô lão kể lại cho người viết về lịch sử của dòng sông; đoạn thứ ba là suy ngẫm của nhà thơ về những lời kể của các bô lão; đoạn thứ tư ca ngợi non sông và cả con người Việt Nam.
Trong đoạn thứ ba, hình ảnh các bô lão dường như là một bản sao của chính tác giả, chính bản sao này giúp chúng ta hiểu rõ thái độ của từng nhân vật. Các bô lão kể cho khách nghe về không khí tiến công trên chiến trường để củng cố lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Các bô lão kể lại cho người khách nghe tất tật về trận chiến đấu như thể trận đấu đang hiện hữu ngay trước mắt nhân vật “khách” vậy. Các bậc bô lão hào hứng nhận xét và kể về những thành tích chói lọi của trận chiến cho vị “khách mời” đặc biệt.
Tuy nhiên:
“Từ có vũ trụ,
Đã có giang sơn
Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!
Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thủy, có quốc sĩ họ Hàn.
Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi,
Bia miệng không mòn.
Đến chơi sông chừ ử mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.”
Có thể nói rằng nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của những cuộc chiến trên sông Bạch Đằng qua lời kể của các bô lão chínhg là đất trời ban cho địa thế hiểm trở, nhân có tài mới giữ cuộc điện an và quan trọng thể thiếu đó là đại vương. Mặc dù các bô lão cũng cho rằng thắng lợi là do nhân duyên trời định, nhưng họ vẫn nhấn mạnh yếu tố then chốt là con người. Hình ảnh của các bậc bô lão đối với nhân dân là yếu tố chính gợi nhớ đến người anh hùng Trần Quốc Tuấn trong số các anh hùng năm xưa.
Lấy con người làm trung tâm của vũ trụ là hình ảnh khẳng định sức mạnh to lớn của những người tài ba nhất đứng đầu toàn quân. Ở đó, các bô lão không chỉ nhấn mạnh vai trò của con người mà cả một giá trị nhân bản cao đẹp cũng được đưa vào toàn bộ tác phẩm. Âm thanh, màu sắc và trí tưởng tượng phong phú của người nghệ sĩ tạo cảm giác cộng hưởng.
Bài phú Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một kiệt tác của áng văn yêu nước và là niềm tự hào của một dân tộc tự hào về truyền thống đạo đức và nhân văn cao cả của dân tộc Việt Nam. Đồng thời thể hiện một tư duy nhân văn cao đẹp, đề cập đến vai trò, địa vị của con người.
5. Phân tích đoạn thứ ba của phú sông Bạch Đằng ý nghĩa nhất:
Trương Hán Siêu là người gốc Thái Bình, Tự là Thăng Phủ. Ông là người giữ nhiều chức vụ quan trọng dưới thời nhà Trần, do học vấn tiến bộ nên được nhiều học trò và nhân dân kính trọng, đặc biệt là các vua quan nhà Trần. Ông được phong Thái Bảo, Thái Phó, sau khi mất ông được thờ ở Văn Miếu.
Trên đường đi Bạch Đằng, một nhánh sông Kinh Thầy đổ ra biển giữa Quảng Ninh và Hải Phòng, địa danh lịch sử nổi tiếng, nơi quân ta hai lần đánh thắng quân xâm lược Mông – Nguyên. Tác giả trong không giận đó đã nhớ về những anh hùng xưa, vừa tự hào mà viết nên bài “Phú sông Bạch Đằng” bằng chữ Hán. Tác phẩm này được coi là hay nhất của văn học trung đại.
Nội dung bài “Phú sông Bạch Đằng” thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc của tác giả về những chiến công lẫy lừng, hùng tráng của quân và dân nhà Trần tại sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam ta. Bài viết vừa tràn đầy niềm tự hào dân tộc, hoài niệm, vừa thể hiện triết lý về sự biến đổi, luân chuyển của Tạo hóa.
Bài phú là thể loại phú cổ thể có đặc điểm đan xen với nhau như trường ca, văn xuôi và tác phẩm văn học. Nhân vật khách độc thoại và đối thoại với cụ già bên sông. Bài thơ kết thúc bằng hai khổ thơ lục bát.
Mở đầu bài, nhân vật khách cảm nhận trước cảnh hùng vĩ của dòng sông Bạch Đằng. Đó là cảm hứng lịch sử của một con người tự do và phóng khoáng. Vị khách chính là một nhà văn, khách quan là một nghệ sĩ thích du lịch, yêu cảnh sắc thiên nhiên và cũng say mê tìm hiểu lịch sử hào hùng của dân tộc.
Sau lời kể về trận chiến thì các bô lão bình luận về nguyên nhân làm nên sự thắng lợi của trận chiến Bạch Đằng:
“Tuy nhiên:
Từ có vũ trụ, đã có giang san.
Quả là:
Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ:
Nhân tài giữ cuộc điện an.”
Khổ thơ này gợi lại ý thức về chủ quyền, độc lập dân tộc được thể hiện và củng cố trong bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt. Đất nam sông núi tồn tại độc lập cùng với đất bắc, được phân định rõ ràng trong Thiên thư. Quan niệm về mối quan hệ Trời – Đất – Người càng được khẳng định. Trời đất hiểm trở đóng vai trò quan trọng, nhưng chủ thể bảo vệ đất nước lại chính là con người. Những con người làm nên chiến thắng ở đây chính là những tấm gương trung nghĩa, những tài năng lỗi lạc:
“Hội nào bằng hội Mạnh Tân: như vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ: như quốc sĩ họ Hàn.
Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.”
Việc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn triệu tập chư tướng, thân vương ở bến Bình Than cũng giống như việc vương sư Lã Vọng giúp vua Vũ chiêu tập quân chư hầu ở Mạnh Tân và diệt được vua Trụ hung ác; tựa như bậc công thần Hàn Tín, nhà Hán, giúp Lưu Bang đánh tan quân Tề ở Duy Thủy.
Bạch Đằng đại thắng là do trí tuệ của người lãnh đạo. Sự thật là sau hai lần thất bại năm 1287, quân Nguyên xâm lược nước ta lần nữa. Vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc Tuấn “Giặc đến đánh thế nào?”. Hưng Đạo Đại Vương nói: “Năm nay đánh giặc nhàn”. Ý kiến cho rằng địch dễ đánh không phải là thái độ chủ quan mà căn cứ vào tài thao lược, niềm tin vào sức mạnh toàn dân tộc và kinh nghiệm của hai cuộc kháng chiến trước đây. Đây là một câu nói, một chi tiết hiện thực, mãi mãi đi vào văn học và thể hiện chí khí của nhân dân Đông A anh hùng.
Tính chất hoành tráng của bài phú thể hiện ở nguồn cảm hứng lịch sử dồi dào âm vang chiến công vang dội, tích tích gắn liền với non sông nổi tiếng. Phú sông Bạch Đằng có thể coi là một tác phẩm văn học tiêu biểu của thời Lý – Trần. Bài phú thể hiện lòng yêu nước, tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất và truyền thống đạo lý, đạo lý vẻ vang của dân tộc Việt Nam.