Bình Ngô đại cáo là áng thiên hùng ca của dân tộc ta sau chiến thắng lẫy lừng trước quân xâm lược. Dưới đây là bài viết về Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi siêu hay
Mục lục bài viết
1. Dàn ý Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi siêu hay:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu về tác giả tác phẩm Bình Ngô đại cáo
Dẫn dắt người đọc vào việc phân tích đoạn 3 của Bình Ngô đại cáo
1.2. Thân bài:
Khẳng định quyết định thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa đó là người lãnh đạo: Lê Lợi:
– Là người anh hùng có lòng tự tôn dân tộc, yêu nước thương dân, sự căm ghét giặc ngoại xâm “Ngẫm thù lớn… không cùng sống”
– Lòng kiên trì “Nếm mật nằm gai… mười mấy năm trời” xây dựng lực lượng
– Khả năng thu phục, biết coi trọng nhân tài
– Sự quyết tâm đánh ngoại xâm dẫu gian khó “Tấm lòng… phía Đông”
“Tường thuật” diễn biến của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
Giai đoạn đầu khởi nghĩa:
– Sự chênh lệch tất cả các mặt so với quân giặc
– Thiếu người tài ra giúp nước, thiếu binh sĩ tham gia giết giặc
– Lương thực cạn kiệt, giặc vẫn hoành hành ngày đêm, quân đội thưa thớt
=> Khó khăn chồng chất nhưng sĩ khí áp đảo kẻ thù, với sự đoàn kết, lạc quan.
Giai đoạn phản công:
– Trận thắng đầu tiên thật vang dội: “Trận Bồ Đằng… chẻ tro bay”
– Các trận thắng tiếp theo: “Ninh Kiều máu chảy thành sông… nhơ để ngàn năm”
=> Hình ảnh diễn tả chân thực những trận đánh lịch sử
Quân ta hùng dũng, đánh cho giặc tan tác, nhưng không đuổi cùng giết tận mà cho giặc con đường lui, cho chúng về nước => Tinh thần nhân nghĩa và hòa hoãn sáng suốt, tránh mối họa sau này.
Hình ảnh của giặc:
– Hèn nhát, ham sống sợ chết khác xa với hình ảnh ngang ngược trước đó
– Kẻ chịu”bêu đầu”, kẻ thì “đành bỏ mạng”, “lửa cháy lại càng cháy”
– Quân giặc đầu hàng, xin bỏ trốn…
Nghệ thuật trong khổ thơ này:
– Nghệ thuật phóng đại
– Bút pháp tương phản
1.3 Kết bài:
– Khẳng định lại giá trị khổ 3 bài Bình Ngô đại cáo.
– Nêu suy nghĩ của bản thân.
2. Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi siêu hay:
Sau khi đánh bại quân Minh, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết bài cáo để thông báo cho toàn dân về chiến thắng. Bài cáo không chỉ khẳng định chủ quyền quốc gia và chỉ trích tội ác của giặc Minh mà còn tường thuật quá trình đấu tranh gian khổ và thắng lợi của nhân dân Đại Việt. Đặc biệt, vai trò lãnh đạo và quyết tâm của vua Lê Lợi trong việc đánh bại quân giặc được thể hiện rõ nét.
Mở đầu phần ba, tác giả nêu rõ những khó khăn mà vua Lê Lợi và nhân dân Đại Việt phải đối mặt:
“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.”
Đoạn thơ thể hiện rõ những thử thách và quyết tâm của vua Lê Lợi. Không thể chấp nhận cảnh nhân dân trở thành nô lệ dưới ách giặc Minh, người anh hùng Lê Lợi đã kiên trì ở chốn rừng núi, chịu đựng gian khổ để chờ ngày khởi nghĩa. Vua Lê căm ghét giặc, đau đớn đến mức nhức óc, lo lắng đến mức trằn trọc chỉ vì mục tiêu đánh bại quân Minh. Trong lúc quân Minh vẫn còn mạnh, việc khởi nghĩa lại càng khó khăn vì thiếu nhân tài:
“Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,”
Việc so sánh này càng làm nổi bật hoàn cảnh khó khăn của đất nước. Những khó khăn chồng chất, nhà vua không có ai để trao đổi hoặc hỗ trợ. Tuy nhiên, lòng yêu nước của nhân dân vẫn vững vàng hướng về phía Đông, khao khát dẹp giặc. Khi không có người tài, Lê Lợi phải tự mình gánh vác, vừa vì lý tưởng cứu nước, vừa lo lắng cho đất nước. Dù có lúc quân đội cạn kiệt nhưng với ý chí kiên cường và kế sách tài tình, vua Lê đã vượt qua khó khăn, chiến thắng và đánh đuổi quân Minh.
Sự thật cho thấy, nhờ nỗ lực không ngừng và chiến lược tài ba, Lê Lợi đã dẫn dắt nhân dân giành chiến thắng và đẩy quân Minh về nước:
“Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay
……..
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp”
Qua việc liệt kê các sự kiện và trận đánh một cách chi tiết, tác giả đã mô tả sự tàn phá và thất bại của quân Minh. Những cái tên như Trần Trí, Sơn Thọ, Tuyên Đức, Lý An, Phương Chính, Liễu Thăng… đã trở thành trò cười cho thiên hạ. Bằng việc sử dụng thời gian cụ thể, tác giả mô tả diễn tiến chiến thắng từng bước của vua Lê Lợi và quân sĩ. Chúng ta đã dùng chính nghĩa để chống lại bạo ngược và các trận đánh đều vang dội, khiến quân địch không còn cơ hội rút lui, phải bò ra xin hàng, xác chết chất thành đống, máu đỏ làm nước sông.
Không chỉ chiến thắng, Lê Lợi và quân đội cũng thể hiện lòng nhân đạo ngay cả khi giành chiến thắng:
“Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.”
Dù chiến thắng, quân ta vẫn cấp thuyền và ngựa cho đối phương về nước. Theo vua Lê Lợi, nếu họ muốn hòa bình thực sự, thì ta nên giữ nguyên quân đội, để nhân dân có thời gian nghỉ ngơi.
Quá trình chiến đấu đầy gian khổ này đã dẫn đến chiến thắng vinh quang. Cuộc chiến của quân dân Đại Việt là cuộc chiến chính nghĩa, dùng nhân nghĩa để chống lại bạo ngược và chính nghĩa đã thắng lợi. Đồng thời, chúng ta cũng tự hào về vua Lê Lợi – một nhà lãnh đạo tài ba đã dẫn dắt nhân dân đánh bại quân Minh và bảo vệ đất nước. Đặc biệt không thể không nhắc đến tài năng và công lao của Nguyễn Trãi khi viết bài hùng văn này.
3. Phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi ngắn gọn nhất:
“Bình Ngô đại cáo” là một tài liệu tuyên ngôn độc lập của Đại Việt về quyền sống của con người, đồng thời cũng là một bản anh hùng ca vĩ đại của quân dân Đại Việt trong cuộc chiến chống quân Minh xâm lược. Đặc biệt, đoạn thơ thứ ba miêu tả những trận đánh dũng cảm của ta, làm cho quân thù tan tác và cũng phản ánh tinh thần nhân đạo của quân dân triều Lê.
Trong “Bình Ngô đại cáo”, nhân tố chủ chốt dẫn đến chiến thắng trong cuộc khởi nghĩa chính là vị anh hùng Lê Lợi. Nguyễn Trãi khắc họa Lê Lợi là người có lòng tự hào dân tộc và căm ghét quân Minh đến mức “Ngẫm thù lớn há đội trời chung/Căm giặc nước thề không cùng sống”. Chính lòng căm thù này đã khiến Lê Lợi quyết định dựng cờ khởi nghĩa, chọn vùng đất hoang sơ Lam Sơn làm căn cứ, chờ thời cơ diệt trừ quân giặc. Vua Lê Lợi cũng là một nhà lãnh đạo đáng kính với tinh thần kiên trì “Nếm mật nằm gai/chốc đà mười mấy năm trời” để xây dựng lực lượng, thu phục nhân tài và quyết tâm chiến đấu chống ngoại xâm “Tấm lòng cứu nước vẫn đăm đăm muốn tiến về phía đông” hướng tới một tương lai tươi sáng cho dân tộc.
Lúc bấy giờ, nghĩa quân chúng ta còn yếu kém về nhiều mặt “Vừa lúc cờ nghĩa dấy lên/Chính là lúc quân thù đương mạnh”, lại thiếu nhân tài “Tuấn kiệt như sao buổi sớm/Nhân tài như lá mùa thu” và không có đủ binh sĩ tham gia “Trông người người lại càng vắng bóng, mịt mù như chốn bể khơi”. Trong khi đó, giặc Minh ngày đêm tàn sát và cướp bóc, đất nước đã lâm vào cảnh nguy hiểm, khiến Lê Lợi “vội vã như cứu người chết đuối”. Quân thù vẫn hoành hành “hung đồ ngang dọc”, tình hình khó khăn chồng chất.
Với quyết tâm và lòng căm thù giặc, nghĩa quân đã vượt qua những khó khăn ban đầu, tập hợp lực lượng và đoàn kết “tướng sĩ một lòng phụ tử”. Ta áp dụng chiến lược “dùng quân mai phục”, “lấy ít đánh nhiều”, “lấy yếu chống mạnh” khiến quân dân ta trở nên mạnh mẽ, giành được nhiều chiến công vang dội. Những thắng lợi này xuất phát từ lòng nhân nghĩa, chứng minh chân lý chính nghĩa luôn chiến thắng gian tà. Trận đầu tiên mở ra thắng lợi vĩ đại với những hình ảnh mạnh mẽ về nghĩa quân. Ngược lại, quân thù thì rơi vào tình trạng thảm hại “nghe hơi mà mất vía”, “nín thở cầu thoát thân”, hoàn toàn trái ngược với vẻ ngang tàn trước đây. Với những chiến thắng liên tiếp, quân ta chiếm được các cứ điểm quan trọng như Đông Đô và Tây Kinh, khiến “Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm/ Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”. Những hình ảnh này chân thực mô tả sự tàn khốc của chiến tranh, với máu của cả ta và địch đổ xuống. Nhưng chúng ta thắng nhờ chính nghĩa và tinh thần anh dũng. Còn quân giặc bại trận thì kẻ bị “bêu đầu”, “bỏ mạng” và tướng Vương Thông dù muốn hòa mà “lửa cháy lại càng cháy”.
Với tinh thần nhân đạo, quân ta đã mở đường cho giặc rút lui, nhưng chúng vẫn ngoan cố cầu cứu bằng việc cử các tướng Liễu Thăng, Mộc Thạnh, và Tuyên Đức. Nhưng chúng không ngờ rằng:
“Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Ta sau lại đưa tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực”.
Kết quả là “Liễu Thăng cụt đầu/Lương Minh bại trận tử vong/Lí Khánh cùng kế tự vẫn”. Nghĩa quân ta tiếp tục mở rộng quy mô, tuyển thêm binh sĩ để chuẩn bị cho các trận chiến, quét sạch quân thù:
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông”
Khắp nơi xác giặc nằm la liệt, máu chảy đỏ nước, các hình ảnh này phản ánh sự tàn khốc của chiến tranh. Cảnh quân giặc giẫm đạp lên nhau để bỏ trốn thật là bi thảm. Với lòng nhân ái, “đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại”, ta đã “mở đường hiếu sinh” cho chúng. Hành động này vừa khiến giặc phải kính nể, vừa giúp đất nước tập trung xây dựng và hòa bình lâu dài.
Phần ba của “Bình Ngô đại cáo” đã diễn tả chân thực quá trình khởi nghĩa và đánh đuổi quân xâm lược bằng giọng văn hào hùng, bi tráng, cùng những hình ảnh mạnh mẽ và gợi cảm. Những hình ảnh sống động về khí thế của nghĩa quân khiến tác phẩm xứng đáng với danh hiệu một thiên anh hùng ca của dân tộc.