Đoạn 3 của bài thơ Đất nước là một bức tranh tổng hợp về quá trình hình thành và phát triển của đất nước, qua đó khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới đây là bài phân tích Đoạn 3 bài thơ Đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích đoạn 3 bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm :
Mở bài: Giới thiệu tác giả tác phẩm và vị trí đoạn trích.
Xem chi tiết hơn về tác giả tại:
Thân bài:
Đất nước ra đời từ xa xưa, gắn liền với những truyền thuyết, cổ tích từ xa xưa.
– Sản xuất những truyền thống rất tốt đẹp của dân tộc từ truyện cổ tích, dựa trên truyền thuyết.
– Sự tích Trầu Cau, nhắc lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam là tình anh em sâu nặng, vợ chồng thủy chung, nhắc lại những phong tục đẹp của dân tộc ta. Đó là tục ăn trầu nhuộm răng.
– Truyền thuyết về Thánh Gióng cũng rất quen thuộc, gợi lại truyền thống yêu nước, bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
– Đất nước có từ lâu đời bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục của cha ông.
– “Tóc mẹ búi ra sau đầu” gợi cho người đọc ký ức về phong tục các bà, các mẹ ngày xưa búi tóc thấp, búi tròn sau gáy.
– “Cha mẹ thương nhau bằng muối gừng cay”, là đại biểu cho truyền thống tôn trọng tình nghĩa vợ chồng.
– Đất nước đã có từ rất lâu đời và được hình thành cùng với quá trình phát triển của con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường, biết làm nhà, trồng lúa, cấy cây…
– Về không gian địa lý, Đất Nước là nơi con người sinh sống, hẹn hò “nơi em đi học”, “nơi em tắm”,… là một không gian thực sự gần gũi, thân thiết. Nhưng đất nước cũng đã khoác lên mình một dáng vẻ cao cả, hùng vĩ như những “núi bạc”, “biển cả” nơi con người tìm về sau những ngày xa quê hương.
– Về thời gian lịch sử:
Quá khứ ấy còn là một đất nước vĩ đại và linh thiêng, sau đó tác giả nhắc nhở ta về nòi giống cao quý của dân tộc ta là con rồng cháu tiên. Đồng thời cũng nhắc nhớ về những truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông ta.
Trong hiện tại, nơi đất nước hiện ra một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện trong mỗi con người, đã bao ngôn ngữ để con người giao tiếp và tư duy, bao phong tục tập quán tốt đẹp sẽ còn tồn tại trong mỗi nếp sống.
Trong tương lai đó là một Đất nước với biết bao viễn cảnh tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, được đặt lên vai trọng trách lớn lên cả về trí tuệ và tầm vóc, làm nên những điều kỳ diệu. cho cả dân tộc.
Tư tưởng Quốc gia của nhân dân ta:
– Về không gian và địa lý:
– Cảm nhận đất nước đã đi qua những danh lam thắng cảnh Việt Nam được nhắc đến dày đặc trong từng ý thơ, gửi gắm niềm tự hào của tác giả về quê hương, đất nước.
– Nhắc nhở về những truyền thống thực sự tốt đẹp của dân tộc.
– Nhấn mạnh đất nước ta là một dải núi sông liền nhau, từ đó gợi lên ý chí thống nhất Tổ quốc, Bắc Nam một nhà của nhân dân ta.
Biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt Nam, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình nghĩa vợ chồng, cũng như ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, gợi lại thời dựng nước thiêng liêng. hào hùng và cuối cùng là nhắc lại truyền thống hiếu học của dân tộc ta, nhất là những điều giản dị nhất như con cóc, con gà cũng làm nên cảnh sắc cho quê hương.
=> Khẳng định mạnh mẽ tư tưởng đất nước của nhân dân vì nước là do nhân dân góp công, của Nguyễn Khoa Điềm rất nhiều.
Vài nét về thời đại và lịch sử nước ta:
– Suốt 4000 năm lịch sử, nơi những con người đã luôn đứng lên đấu tranh bảo vệ Tổ quốc “không ai nhớ tên” nhưng họ cũng là những người đã có công dựng nước.
– Nhân dân không chỉ là người dựng nước và giữ nước, mà nhân dân còn là người thực hiện nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng đó là lưu truyền cho thế hệ mai sau những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của dân tộc. .
Về mặt văn hóa:
– Tác giả cũng đã lựa chọn ba câu ca dao tiêu biểu để gợi lên ba nét đẹp tinh thần của người Việt, cũng là ba nét đẹp văn hóa rất tiêu biểu” của người Việt Nam nói chung.
– “Yêu em từ thuở nằm nôi/ Em nằm em khóc, em ngồi em ru”, đó là vẻ đẹp nồng nàn nhất trong tình yêu, biết yêu thương những người xung quanh mình.
– “Đi bồng vàng lội sông/Vàng rơi không tiếc tay cầm vàng”, từ đó ta thấy được vẻ đẹp của sự coi trọng tình nghĩa hơn là những giá trị vật chất tầm thường.
– “Thù này ắt để lâu/Trồng tre cắm gậy phải khập khiễng” gợi vẻ đẹp bền bỉ trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta từ bao đời nay.
Kết bài: Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài.
Xem thêm dàn ý toàn bài thơ Đất nước tại: Soạn bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ngắn gọn nhất
2. Bài mẫu 1 phân tích Đoạn 3 bài thơ Đất nước:
Từ xưa đến nay, viết về đất nước luôn là nguồn cảm hứng chủ đạo của văn học. Tiếp nối mạch nguồn văn học dân tộc, tác giả Nguyễn Khoa Điềm, một gương mặt nổi bật của văn học kháng chiến chống Mỹ đã có những cái nhìn rất mới về ước mơ đất nước. Quan điểm ấy được ông thể hiện đầy đủ nhất qua đoạn trích “Đất Nước” trong sử thi Mặt đường đầy khát vọng.
Đất nước là một khái niệm khác nhau đối với mỗi người. Đối với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy, bằng tình cảm của mình, bằng sự phân tích bằng tư duy logic, và lần lượt từng tầng ý niệm về đất nước dần được ông mở ra. Ông không định nghĩa bằng những khái niệm quá mơ hồ, trừu tượng mà từ những điều rất cụ thể trong chính cuộc sống:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre mà đánh giặc
Qua quan niệm của tác giả, hình ảnh đất nước hiện lên thật bình dị, đất nước đến từ truyện cổ tích, từ trầu cau, từ truyền thuyết Thánh Gióng trồng tre đánh giặc Ân. Tổ quốc ta có từ ngày ấy, đã thấm nhuần trong lòng mỗi đứa trẻ từ thuở ấu thơ.
Không chỉ vật, mà nước còn được hình thành từ những thuần phong mỹ tục, từ những nét văn hóa, truyền thống tốt đẹp của cả dân tộc ta. Hình ảnh “tóc mẹ vén sau đầu” thể hiện nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa được lưu giữ từ ngàn đời nay của ông cha ta. Nghìn năm Bắc thuộc, nếu phương Bắc tìm cách Hán hóa bằng mọi cách thì cũng không cách nào xóa bỏ được vốn văn hiến cao đẹp của dân tộc ta. Đất nước còn được hình thành từ lối sống thủy chung, tình cảm, bắt nguồn từ tình nghĩa vợ chồng: “Cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn”. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng bậc thầy ca dao: “Tay nâng đĩa muối gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” để cho thấy Đất nước được hình thành từ những gì có vẻ là. giản dị nhưng rất thiêng liêng và cao cả.
Tiếp tục mạch cảm hứng đó, tác giả Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục chiết tự về khái niệm Đất Nước:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đã đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất nước không còn là xa lạ mà là không gian sống, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của tất cả chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm không khoa trương, không ngần ngại nói rõ đó là nơi đi học, nơi tắm, nơi hò hẹn, nơi thương nhớ. Vâng, đó là đất nước được hình thành từ những điều giản dị nhất của cuộc sống. Và để khắc sâu quan niệm ấy, ông đã truy ngược nguồn gốc, ngược về quá khứ: “Đất nước là nơi nhân dân sum họp/Đất là nơi chim về/Nước là rồng ở/Lạc Long Quân, Âu Cơ/Đẻ con đồng bào trong bọc trứng”. Từ sự lý giải sâu sắc trên hai bình diện lịch sử và địa lý, ông dần dần đi đến hoàn chỉnh khái niệm Đất nước. Đồng thời cũng nêu lên trách nhiệm của mỗi người đối với cuộc sống của đất nước: “Người đã khuất/ Kẻ còn bây giờ/ Thương nhau mà thôi con/ Chịu phần người đi trước để lại// Xin dạy con cháu mai sau nên làm gì/ Ăn ở đâu hàng năm/ Con cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”. Hai từ “gánh” đã khẳng định thế hệ mai sau có trách nhiệm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời Người cũng nhắc nhở, dù có dựng nước cũng không được quên công lao của những người có công dựng nước, dựng nước. Chỉ với hai hai chữ “lạy” cũng thể hiện được tấm lòng thánh thiện, thiêng liêng hướng về quê cha đất tổ, nơi tổ tiên sinh ra và lớn lên.
“Trong anh em hôm nay/…/Đất nước vẹn toàn và to lớn”, câu thơ đã khẳng định, đất nước tồn tại và bền vững là nhờ có sự đoàn kết của mọi người, của tình yêu đôi lứa. . Chỉ khi nào có sự hài hòa giữa cái chung và cái riêng, giữa cá nhân và tập thể thì mới có một đất nước vĩ đại và toàn vẹn. Và từ đó, Người cũng nêu cao trách nhiệm của mỗi cá nhân cũng như của toàn thể thế hệ trẻ đối với đất nước như: “Các em ơi, đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và sẻ chia/ Phải biết chuyển mình cho hình dáng đất nước/ Làm cho đất nước trường tồn” vì:
Những người vợ nhớ chồng còn đóng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Những người dân nào đã góp nên những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Hàng loạt địa danh, danh lam thắng cảnh được ông đặt tên. Mỗi địa danh ấy cũng gắn liền với một chiến công, với sự hy sinh thầm lặng để đất nước mãi mãi tươi sáng. Chính vì thế đã khiến Người rút ra kết luận: “Còn đâu đâu ruộng nương/…/Đời ta đã hóa núi sông”.
Làm nên đất nước, không thể chỉ một cá nhân làm nên văn hóa, truyền thống, lịch sử của dân tộc. Vậy là ai, tất cả là ai?
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Quả thật, đó là những con người vô danh, họ là những cô gái, những chàng trai, họ “sống chết” “giản dị và bình lặng” họ đặt tên xã là làng, mang về những phong tục tập quán được truyền lại, gìn giữ cho muôn đời sau. . Chính họ cũng đã làm nên đất nước. Với thủ pháp liệt kê và nói “họ”, Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ ra trước mắt người đọc một lớp người vô danh được nối tiếp nhau truyền từ đời này sang đời khác cho con cháu những giá trị vật chất, vật chất. tinh thần cao thượng. Và mục tiêu của họ là:
Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất nước của Nhân Dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Về điểm này, Nguyễn Khoa Điềm cũng khẳng định mạnh mẽ quan điểm tư tưởng của mình về đất nước và nhân dân. “Trở về cội nguồn đất nước là trở về cội nguồn văn hóa dân gian giàu đẹp” khởi đầu cho truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. Đồng thời cũng là nơi tạo dựng và khơi dậy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta:
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Bài thơ kết thúc bằng những khúc tráng ca tự hào, trải dài dường như vang vọng khắp sông núi. Đồng thời tiếng hát ấy cũng thể hiện niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối với truyền thống văn hiến ngàn đời của cha ông để lại.
Đất Nước là bài thơ giàu chất suy tưởng, triết lí, thể hiện quan niệm rất riêng, mới mẻ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Với bài thơ này, người đọc đã được mở mang kiến thức và có cái nhìn chân thực hơn về Đất nước trong suốt chiều dài lịch sử. Từ đó em càng thêm yêu và tự hào về nơi mình đã sinh ra và lớn lên.
Cùng tham khảo bài phân tích đoạn 2 bài thơ Đất nước tại: Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hay
3. Bài mẫu 2 phân tích Đoạn 3 bài thơ Đất nước:
Đất nước là đề tài muôn thuở trong thơ ca, nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao nghệ sĩ. Trong những năm tháng chiến tranh khắc nghiệt, tình yêu đất nước vẫn tỏa sáng và cháy bỏng trong trái tim mỗi người dân đất Việt. Đoạn trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác trong hoàn cảnh đó.
Nói đến văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta biết đến các nhà thơ thời kỳ này như Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật… đã viết về tinh thần của cả một dân tộc:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
mà lòng phơi phới dậy tương lai.”
Một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam lúc bấy giờ phải kể đến một nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến trường kỳ nhưng nhất định thắng lợi của dân tộc đó là Nguyễn Khoa Điềm.
Nhắc đến nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, người yêu văn chương nào cũng không thể quên phong cách thơ của ông là thơ trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm hấp dẫn người đọc bởi những cảm xúc lắng đọng, giàu chất chiêm nghiệm, thể hiện tâm thế của người trí thức tích cực tham gia các cuộc đấu tranh của nhân dân. Một trong những kiệt tác đó của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến đoạn trích “Đất nước” trong chương V của “Bài ca dài với mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, và được in. lần đầu tiên vào năm 1974.
Tác phẩm đã xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của dân”, được nhân dân mãi mãi bảo vệ và giữ gìn, nhưng trên cả ba bình diện: bề rộng của không gian địa lý, bề dài của lịch sử, bề sâu của lịch sử. văn hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm câu hỏi: “Đất nước này ai dựng nên, ai sẽ bảo vệ, gìn giữ muôn đời?” Để trả lời những câu hỏi đó đã khiến Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc tìm về cội nguồn Tổ quốc.
Khi nói đến những nét đẹp của đất nước trên bình diện nhiều chiều sâu văn hóa, chúng ta phải hiểu rằng văn hóa là những giá trị mà con người ở một vùng đất tạo ra. Có thể đó là giá trị tinh thần, có thể đó là giá trị phi vật thể. Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa nhìn nhận, người Việt Nam không chỉ cử nhau đi bảo vệ bờ cõi mà còn trao truyền, đùm bọc lẫn nhau những hạt giống của dân tộc ta, với những nét đẹp thấm đượm bản chất của người Việt Nam. được truyền từ đời này sang đời khác, từ trái tim của người giàu đến lồng ngực của người trẻ, đó là nét đẹp đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam chúng ta. Đất nước bắt đầu từ một cách trang trọng nhưng rất giản dị và gần gũi:
Cấu trúc câu “Đất nước đã – khởi đầu – lớn lên” đã hình dung quá trình phát triển của đất nước trong giai đoạn lịch sử đó, đất nước như một sinh thể sống có nội lực mạnh mẽ. Nghệ thuật liệt kê là biện pháp chính chi phối toàn bài thơ, góp phần khắc họa cảnh quê thật bình dị, gần gũi. Đất nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha, ở đó đất nước hài hòa trong mối quan hệ gia đình, tình làng nghĩa xóm. Đất nước cũng là một phần máu thịt trong ký ức của mỗi con người sinh ra đời.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”
Nhà thơ ngược dòng được cảm xúc của mình về với những cái ngày xửa ngày xưa, đưa ta về miền cổ tích diệu kỳ từ lâu đã trở thành cội nguồn của đời sống, tâm hồn ta, cho ta được những bài học nhân sinh về lẽ sống nhân hậu, sống nghĩa tình, sống yêu thương, và chở che nhau.
“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn”Đó là tục nhuộm răng và ăn trầu của người già. Đồng thời cũng có câu tục ngữ “miếng trầu là đầu câu chuyện” sự tích trầu cau là nét đẹp của người già Việt Nam. Đất nước là nền văn hóa kết tinh từ tâm hồn người Việt. Từ truyện dân gian, cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật thẩm mỹ, là hiện thân của tình yêu thủy chung, thủy chung của tâm hồn dân tộc ta. Tiếp đó, nhà thơ đóng vai trò là người dẫn đường đưa chúng tôi về với làng Phù Đổng để nghe truyền thuyết về Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh thắng giặc Ân.
“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh trồng tre đánh giặc đó của nhân dân ta được lặp lại không chỉ một lần mà xuyên suốt 90 câu thơ. Hình ảnh này được lặp lại ba lần, là biểu tượng cho truyền thống yêu nước, đánh giặc bảo vệ đất nước. người Việt Nam chúng ta. Có thể thấy, từ truyền thuyết dân gian đến các tác phẩm thơ ca hiện đại bao đời nay, cây tre đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh, tinh thần đánh giặc cứu nước, biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân. Con người Việt Nam. Từ “lớn lên” được sử dụng rất chính xác, khơi dậy niềm tin và niềm tự hào dân tộc.
Giọng thơ trầm bổng, trang nghiêm gợi suy nghĩ về cội nguồn đất nước giàu chất triết lí nhưng vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận, nơi lý giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh giản dị, quen thuộc đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân quen, bình dị ngay trong cuộc đời mỗi con người. Câu ca dao: “Tóc mẹ vén sau đầu” nhắc đến mỗi chúng ta đã từng nghe về phong tục làm nên nét riêng của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.
Đất nước đã lớn lên từ mồ hôi nắng mưa. Hạt gạo, hạt gạo thấm bao mồ hôi, bao công lao nuôi dạy biết bao thế hệ. Đất nước lớn lên từ những nhọc nhằn của người cha và từ sự lo toan của người mẹ: “Cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn”. Nó là chất liệu của ca dao, tục ngữ và nó là tình, là nghĩa, là lời thề vàng son sắt, là nơi chung thủy, chung thủy của nếp sống lứa đôi Việt Nam.
Câu ca “Kèo, cột thành danh” ám chỉ tục đặt tên xấu cho con dễ nuôi. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong câu thơ thứ tám “Gạo phải xay, giã, sàng, sảy” thể hiện các công đoạn và để tạo nên hạt gạo – một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn luôn bảo vệ hạt giống, cốt lõi của dân tộc Việt Nam. Những nét đẹp do cha mẹ truyền lại cho con cái tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, ông cha truyền lại cho con cháu lối sống, nếp nghĩ qua ca dao, tục ngữ.
Và nhân dân là những người thực sự đã truyền lại những nét đẹp của đất nước, những nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Dần dần, tác giả nhận ra: “Đất nước có từ ngày ấy…”, không biết ngày ấy sẽ có từ bao giờ, chỉ biết rằng nó có từ rất, rất lâu rồi. Chỉ biết rằng, đất nước cũng đã tồn tại từ thuở có truyền thuyết, huyền thoại, từ thuở lập quốc, đến khi dân tộc Việt Nam không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng liêng. sử dụng bảng. lao động xây dựng đất nước.
“Ngày ấy” vừa là trạng ngữ chỉ thời gian trong quá khứ, vừa là đại từ thay thế. Vậy là Đất nước đã có từ khi mẹ tôi hay kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ tích, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết trồng lúa khoai, biết ăn trầu, biết sống nghĩa tình thủy chung.
Như đã nói ở trên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ trong quân đội, là một trong những nhà thơ xẻ dọc những mảnh đất hình tia chớp. Trước hết, khi nói về chiều rộng của không gian địa lý, chúng ta phải hiểu rằng địa lý là tất cả những yếu tố tất nhiên sẽ có trên một đơn vị diện tích lãnh thổ của quốc gia. Là nhà thơ đã đi suốt chiều dài mảnh đất hình chữ S, ông am hiểu từng danh lam, thắng cảnh trên lãnh thổ Việt Nam.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước Những núi Vọng Phu
….
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Cảm nhận đầu tiên của ta khi đọc tám câu thơ là ta được đắm chìm trong không gian cổ tích thần tiên. Cả bài thơ là một kho truyện cổ, với những truyền thuyết như “núi Vọng Phu”, hay “hòn Trống Mái” đấy.
Một lần nữa tác giả trong vai người hướng dẫn viên đưa chúng ta trở lại làng Phù Đổng để nghe câu chuyện Thánh Gióng nhổ tre bụi ngà đánh tan quân Ân xâm lược. Đó là truyền thống yêu nước của nhân dân ta. Mỗi dòng thơ có độ dài khác nhau nhưng có cấu trúc giống nhau. Mỗi dòng thơ được chia thành hai phần và được nối với nhau bằng điệp ngữ “góp”.
Ta có thể chia bài thơ đọc theo từ “góp” sẽ là hai nửa thể hiện trong quan hệ đối lập. Nửa đầu viết về con người, thơ mộc mạc, giản dị, tình cảm, có chút e ấp, đáng thương. Ngược lại, nửa sau chữ “góp” nói về đất nước, lời thơ đa sắc màu. Nghệ thuật tương phản này cũng là bài ca ngợi sự hy sinh của nhân dân để làm vẻ vang cho đất nước. Đằng sau mỗi địa danh là một cái tên, đằng sau mỗi cái tên là một huyền thoại và đằng sau những huyền thoại của đời người. Những người có công với đất nước là những cặp vợ chồng thủy chung, những anh hùng, những người lính quyết tử vì nước quyết sống, những học trò nghèo mài bút, ông Đốc, ông Trang, bà Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Đen. Diễm… và hơn nữa, nhân dân cũng là những cái tên nhỏ vô danh được ẩn dụ bằng hình ảnh con cóc, con gà.. Trong nhân dân, có những nhân vật chỉ nhắc đến ta. mới thấy được sự uy nghiêm linh thiêng, ngưỡng mộ, tôn thờ, được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp công dựng nước tổ Hùng Vương” là lời chúc quanh núi Hy Cương hay “Rồng nằm im cho non xanh sông thẳm”. Con người chúng ta rất đa dạng, rất nhiều, nhưng họ chỉ làm một điều chung và thống nhất: đóng góp trái tim của mình để xây dựng đất nước Việt Nam của chúng ta. Nhà thơ còn sử dụng cụm từ “góp công” thật ấn tượng, đồng thời gợi lên sự kiên trì, bền bỉ, ý chí thống nhất, đoàn kết của trăm họ trong một điều: cùng nhau góp sức dựng nên một không gian vẻ vang cho nhân gian, mọi người những người sau đây đã góp sức, đoàn kết, cống hiến xương máu, tính mạng, tên tuổi, tài năng của mình. Nhờ vậy mà thế hệ chúng tôi cũng có một đất nước hữu hình và một đất nước anh hùng.
Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến những nơi không tên. Có người từng nói “đất hoang là đất không tên”. Việc đặt tên địa danh là vô cùng quan trọng, không thể tùy tiện. Có rất nhiều địa danh đã được phản ánh trong các áng thơ ca dân tộc ca ngợi cảnh sông núi hùng vĩ, địa linh nhân kiệt.
Nhưng Nguyễn Khoa Điềm cũng không đi theo hướng đó, ông miêu tả sự sinh sôi nảy nở của những nơi ấy bởi ở đó có lòng trung thành, gắn bó, có máu xương, có tài, có danh, có khí. tâm hồn của người dân. Đây là kết quả của sự hy sinh bền bỉ cao cả của một dân tộc. Có thể nói tám câu thơ giúp người đọc thấy được sự kì diệu của thế hệ đi trước. Nó như đóa hoa vàng tỏa sáng mà Tổ quốc gọi công ơn nhân dân – những con người đã hy sinh để làm nên kỳ công là dân tộc ta.
Nếu như tám dòng thơ trước tưng bừng với lung linh sắc màu và hình ảnh thơ thì bốn câu thơ sau là những cảm xúc suy tư của ngôn luận chính trị xen lẫn suy tư của một trí thức.
Trước hết ta đến với hai câu thơ sau:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”
Được viết liền mạch, chữ thảo và diễn đạt theo lối phủ định thành khẳng định. Nó như một bản tuyên ngôn sôi nổi mang hình thức nghị luận nhằm khẳng định mạnh mẽ những hy sinh to lớn của nhân dân. Tiếp đến, câu thơ thứ ba là: “Ôi đất nước bốn nghìn năm nhìn đâu cũng thấy” sử dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ dường như không giấu được lòng mình, bày tỏ sự nghẹn ngào trước những hi sinh to lớn của các vĩ nhân.
Tác giả cũng nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử của dân tộc, bốn nghìn đời tổ tiên đều đánh trận, đời cha đi trước, đời con theo sau, cha con đều là anh hùng. Đồng chí, đồng đội chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc. Kết thúc bài thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng: “Đời đã biến núi sông ta…” bởi có sự biến đổi. Những câu trước mỗi dòng có từ mười ba đến mười lăm âm tiết, nhưng ở câu cuối chỉ có tám âm tiết. Nó như một sự chiêm nghiệm, và một đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Bên cạnh đó, nó cũng được coi là kết thúc bằng hai âm bằng nhau như một giọng trầm để phản xạ lại âm thanh. Dấu chấm lửng kết thúc bài thơ như một khoảng lặng trước những xao động của tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất là câu thơ ngắn gọn biết bao.
Đời người tuy ngắn ngủi hữu hạn, nhưng hóa thành sông núi của ta, gửi gắm uy nghiêm vô biên, trường tồn bất biến. Đây là những biến đổi phi thường khẳng định cá tính của chúng ta và thật đáng kinh ngạc! Họ không chỉ hóa thân và làm nên hình hài đất nước mà còn làm nên tâm hồn đất nước.
Bên cạnh vẻ đẹp về chiều rộng và không gian địa lý, đất nước còn hiện lên với chiều dài lịch sử. Như chúng ta đã biết, tác giả Nguyễn Trãi là một nhà sử học chính thống, một đại thần dưới triều Lê sơ, ông là một nhà sử học, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi coi lịch sử Việt Nam là sự nối tiếp của các triều đại và các vị vua:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Nhưng ngược lại, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia của chính thống. Đoạn thơ có lẽ mang cũng đậm màu sắc lịch sử nhất trong toàn bộ thi phẩm này ta phải kể đến:
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước”
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con”
Nếu như nhà thơ Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận lịch lại sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu nhấn mạnh vào con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm được nói ở đây là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu nói quân hành. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của những người dân Việt Nam. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, và nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của vài những con người vô danh:
“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”
Họ đã làm ra Đất Nước bằng những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời của họ:
“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Họ truyền cho nhau những ngọn lửa bùng cháy khát vọng yêu nước của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ mảnh đất cổ xưa từ thời vua Hùng và thời các vị thánh nhân đi trước. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho những thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc là: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, và tên làng và truyền thống chống thù trong giặc ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi một người yêu văn chương vọng lại những vần thơ của Hoàng Trung Thông trong bài thơ là “Báng súng”:
“Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”.
Chính nhân dân cũng đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên những lịch sử hào hùng, vẻ vang của dân tộc Việt Nam thì đó cũng là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân dân ta. Cũng như vậy, ta nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của nhà thơ Lê Anh Xuân:
“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên vì tì súng trên xác trực thăng
Và Anh đã chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vòng.
Chợt thấy anh và giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhung lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không có một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng
Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sĩ Giải phóng quân.
Tên anh đã thành tên đất nước
Ôi Anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát của mùa xuân”
Không một dòng địa chỉ, không một bức ảnh trước khi lên đường, nhưng những con người ấy vẫn tình nguyện ra đi để bảo vệ đất, nước, sẵn sàng ngã xuống để “Tổ quốc bay lên trong những mùa xuân”.
Hay như nhà triết học người Đức – Engels đã từng nói: “Không có máu, mồ hôi và nước mắt thì không có lịch sử dân tộc”. Tư tưởng sâu xa dẫn đến tư tưởng cốt lõi, là điểm hội tụ và cũng là đỉnh điểm của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn: Đất Nước Đây Cũng Là Đất Nước Của Nhân Dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất nước nhân dân, tác giả đã trở về với cội nguồn văn hóa, văn hóa dân gian giàu đẹp mà thể hiện qua ca dao, vẻ đẹp tinh thần của con người, hơn hết, ở đâu cũng có thể tìm thấy trong ca dao, ca dao, cổ tích: Đất nước của Nhân dân, Đất nước của dân gian mang tính thần thoại. Câu thơ có hai vế song hành cũng là một cách định nghĩa đất nước giản dị nhưng cũng rất độc đáo. Văn hóa Việt Nam là văn hóa của nhân dân, do nhân dân sáng tạo ra. Trong nền văn hóa ấy, có những câu ca dao thần thoại luôn chứa đựng lịch sử, xã hội, văn hóa của đất nước, đặc biệt là đời sống tinh thần của nhân dân.
Nhà thơ còn vận dụng ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà chỉ vận dụng những ý nghĩa, hình ảnh của ca dao, còn gợi nhớ ca dao mà trở thành câu thơ, có một ý thơ gắn trong mạch chung của cả bài để khẳng định rằng: Người Việt Nam trọng nghĩa tình.
Thành công nghệ thuật của mỗi đoạn thơ này là sự vận dụng các yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo nên màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc vừa mới lạ. Chất liệu văn hóa, văn hóa dân gian được sử dụng tối đa để tạo nên không khí, âm điệu, không gian nghệ thuật riêng: vừa mộc mạc, gần gũi, vừa bay bổng, mơ màng của dân ca, huyền thoại nhưng mới lạ qua những cách cảm nhận và thể hiện bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói, chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tác giả, tạo nên những nét nghệ thuật đặc sắc của đoạn thơ này.
Qua đoạn trích Đất Nước, ta phần nào nhận thấy nét đặc sắc trong phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận và trữ tình, giữa suy tưởng và cảm xúc, ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi. , và hơi thở của cuộc sống. Chính luận đã làm sáng lên chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình phong phú. Bài thơ “điệp nhịp đập con tim” khiến ta thêm yêu và tự hào hơn 4000 năm lịch sử của đất nước Việt Nam. Qua đó ta thấy, dù ở lĩnh vực địa lý, lịch sử hay văn hóa, “Đất nước này là của nhân dân”, sẽ được nhân dân bảo vệ và gìn giữ mãi mãi. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã từng chắt lọc, tôi luyện và lên men trong thơ mình những nét đẹp duyên dáng của văn hóa dân gian và thơ văn hóa. Và sự thống nhất trong toàn bài thơ với những câu thơ dài ngắn đan xen như cùng với sự tan chảy của cảm xúc, của dòng suy nghĩ miên man. Xuyên suốt cả bài thơ, hai chữ “Đất nước” luôn được viết hoa trang trọng, lặp đi lặp lại như một câu chủ đề trong những bản anh hùng ca về sông núi. Nhờ đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cùng với trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ được viết theo thể thơ lục bát, kể lể, liệt kê, khó đọc, khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong tác phẩm này, ông xứng đáng là một trong những nhà thơ tiêu biểu của Việt Nam. nhiều nền văn học Việt Nam ngày ấy. Đồng thời, “Đất nước” cũng xứng đáng trở thành hành trang tinh thần lâu dài của những người yêu văn học về đề tài tình yêu quê hương, đất nước và có giá trị cho đến tận ngày nay.
Mở bài thơ Đất nước được phân tích thế nào? Tham khảo tại: Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
4. Bài mẫu 3 phân tích Đoạn 3 bài thơ Đất nước:
Đất nước được tạo nên bởi tâm hồn, bởi tâm hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm tình yêu và dòng máu của mình vào đó. Khổ thơ thứ ba là những lập luận sắc bén nhưng cũng rất trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, qua đó giúp người đọc trả lời câu hỏi: Đất nước do ai làm ra?
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”Về quá khứ, có thể thấy ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện một cái nhìn rất mới, độc đáo của nhà thơ. Xưa nay, viết về những danh lam thắng cảnh đẹp, hoang sơ của dân tộc, là những vùng đất, là đề tài mà bao người cày cuốc, bao bước chân khao khát khám phá. Nhưng ở họ, người đọc chỉ thấy được vẻ đẹp bao la, tươi trẻ của gấm vóc, mà không thấy được tâm hồn sâu lắng đằng sau mỗi mảnh đất, cảnh vật. Tuy nhiên, khi đến với Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ không nhìn danh lam thắng cảnh trong tâm hồn bên ngoài mà nhìn sâu vào trong xương tủy tâm hồn để thấy được những truyền thuyết, những trầm tích văn hóa, lịch sử được khắc ghi trong đó: đó là những truyền thuyết thiêng liên, thấm đẫm tinh thần thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn liền với phong tục tập quán, văn hóa hay với những câu chuyện về con người, lịch sử được lưu giữ từ ngàn đời nay.
Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi ai là người làm nên đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ thể hiện một cái nhìn mới mà còn thể hiện một cách cảm nhận mới. Thế núi hình sông không phải là tạo vật của thiên nhiên mà là hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi cá nhân, mỗi thân phận đã hóa thân để tạo nên hình hài, khát vọng về lối sống cha truyền con nối. Truyền thuyết về hòn Vọng Phu không chỉ gợi lên cảnh chia ly, sự đợi chờ lâu dài trong chiến tranh mà còn ca ngợi tình yêu thủy chung của những người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên Hòn Trống, Hòn Mái của dân gian qua con mắt thi nhân đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của sự màu mỡ, cho tình yêu vĩnh cửu của đôi lứa. Những ngọn đồi thấp bao quanh núi Hy Cương, nơi có đền thờ các Vua Hùng, qua con mắt của người dân, đã trở thành chứng tích của 99 con voi quy tụ, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng lòng hướng về đất nước. thống nhất. Núi Bút, Non Nghiên là hình ảnh của một đất nước ngàn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, là hình ảnh một đất nước lưng đeo gươm, tay mềm cầm bút hoa.
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, chúng ta có thể nhận thấy rằng, nếu thiên nhiên tạo ra núi hình sông thì chính con người, con người, tạo nên linh hồn cho mỗi núi sông. Xuất phát từ quan niệm nhập thể của Bụt, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh nhân dân đã nhập thể vào đất nước.
Bài thơ mở đầu bằng những truyền thuyết dân gian, nhưng nổi lên trên thế giới ấy nhờ cái nhìn mới độc đáo của lối tư duy hiện đại. Sông núi không còn là khung cảnh thiên nhiên thuần khiết, những câu chuyện văn hóa, lịch sử không đơn thuần là thiêng liêng, mà tất cả dưới con mắt Nguyễn Khoa Điềm đều được nhìn nhận như một phần của tâm hồn. máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng, cảm động về công lao đóng góp, hóa thân của nhân dân để dựng nước:
“Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi thời gian lịch sử, vừa không gian mênh mông. Dường như từ đó nhà thơ muốn khẳng định rằng, lặng lẽ trường tồn với thời gian, kiên định trung thành với không gian chính là lẽ sống của nhân dân.
Đoạn thơ là một cảm xúc thiêng liêng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi lên về sự đóng góp, hóa thân to lớn mà nhân dân đã góp phần làm nên văn hóa, lịch sử, tâm hồn của dân tộc. Từ đó giúp gắn kết tâm hồn con người từ bao đời nay.
Tham khảo về: Hoàn cảnh ra đời bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
5. Bài mẫu 4 phân tích Đoạn 3 bài thơ Đất nước:
Tác phẩm “Đất nước” là bài thơ in trong tập hùng ca “Mặt đường khát vọng” thuộc chương V. Được sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên, đây là thời kỳ kháng chiến vô cùng sôi nổi của quân và dân ta. Bài thơ là lời nhắn nhủ, thức tỉnh sâu sắc đối với thế hệ trẻ miền Nam nói với họ và thế hệ trẻ về nhiệm vụ của chính mình đối với đất nước. Phân tích Đất nước ở đoạn 3 để hiểu thêm và có cái nhìn đúng đắn về trách nhiệm, vai trò của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
……
Làm nên Đất Nước muôn đời”
Trong khi ở hai khổ thơ đầu, nhà thơ nói về tình cảm quân dân, tình đoàn kết của mọi người, truyền thống trong gia đình. Qua đó, chúng ta hiểu được cội nguồn của đất nước, biết được Ai đã làm ra đất nước, đất nước là gì. Ở đoạn 3 của bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã gói gọn trách nhiệm mà mỗi người phải có đối với Đất nước.
Hình ảnh đất nước hiện lên vừa thân quen vừa vô cùng gần gũi. Vẻ đẹp của con người là do đất nước kết tinh và hội tụ lại. Nhà thơ khẳng định trong mỗi người dân đều có một phần đất nước. Từ đó, người đọc sẽ hiểu hơn về tình cảm gắn bó của mỗi người với đất nước bao la, rộng lớn. Sự gắn kết ấy được thể hiện trong từng nếp sống, sinh hoạt, cử chỉ vừa thân thuộc vừa chan chứa yêu thương:
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm”.
Ý tưởng về được Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến ngay trong những dòng đầu của bài thơ Đất nước là nơi ta gặp nhau trong bài này và được tiếp tục qua đoạn thứ ba. Phân tích Đất Nước ở đoạn 3 để thấy yêu Đất. Lòng trung thành là cơ sở của tình yêu đôi lứa hay nói cách khác tình yêu được hình thành và phát triển từ lòng yêu nước. Một tình yêu hài hòa và tuyệt vời. Để từ đó, mỗi người có trách nhiệm xây dựng quê hương của mình để góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh. Mỗi chúng ta đều có trách nhiệm gắn bó và kết nối cộng đồng. Suy cho cùng mục đích duy nhất là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Từ “Đất nước trọn niềm bình yên” trong mỗi con người, liên kết với nhau để trở thành “Đất nước đại nghĩa”.
Hình ảnh “Khi hai ta nắm tay nhau” cũng nhằm nhắc nhở chúng ta về cội nguồn, cội nguồn tổ tiên của mình. Tất cả chúng ta đều có chung một cội nguồn – Con Rồng cháu Tiên. Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở chúng ta phải nhớ về cội nguồn và truyền lại tình yêu, niềm hi vọng cho thế hệ mai sau:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Qua việc phân tích đất nước đoạn 3 có thể thay thế hệ trẻ là tương lai tươi sáng của Đất Nước. Thế hệ tương lai được kỳ vọng sẽ gánh vác trọng trách phát triển đất nước. Với trí tuệ và tầm vóc của những người trẻ tuổi, nhất định đất nước sẽ có những triển vọng tươi sáng. Đó cũng là trách nhiệm chung của bất kỳ người Việt Nam nào trong công cuộc dựng nước, giữ nước.
THAM KHẢO THÊM: